Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 2: Những ngọn tháp quỷ của Alicante



Ở đây không có phép thuật, Clary nghĩ khi cô và chú Luke đi vòng quanh khu đất trống tới lần thứ ba, một khu đất có thể được trưng dụng làm khu đậu xe mới cho con đường của thành phố New York. Chiếc xe tải chẳng biết phải đậu vào đâu, và một nửa đường đầy những chiếc xe đậu san sát. Cuối cùng, chú Luke dừng xe trước một vòi phun nước và gạt cần về số mo với một tiếng thở dài. “Đành vậy,” chú nói. “Báo cho họ biết cháu đã tới. Chú sẽ mang va li cho cháu.”

Clary gật đầu, nhưng chần chừ khi chạm tay tới tay cầm cửa. Bụng dạ cô chộn rộn vì căng thẳng, và cô ước, không phải lần đầu tiên, rằng chú Luke sẽ đi với cô. “Cháu cứ nghĩ rằng lần đầu tiên cháu ra nước ngoài, ít nhất cháu cũng phải có hộ chiếu.”

Chú Luke không cười. “Chú biết cháu lo lắng,” chú nói. “Nhưng sẽ ổn thôi mà. Nhà Lightwood sẽ chăm sóc tốt cho cháu.

Cháu đã nói với chú câu đó cả triệu lần rồi, Clary nghĩ. Cô vỗ nhẹ vai chú Luke trước khi nhảy khỏi xe. “Hẹn gặp lại chú.”

Cô cẩn trọng đi trên con đường đá nứt vỡ, âm thanh huyên náo của dòng phương tiện đi lại càng lúc càng xa khi cô càng lúc càng gần với cửa nhà thờ. Lần này, cô mất một lúc lâu để nhìn xuyên qua lớp ảo ảnh của Học Viện. Như thể gần đây nhà thờ công giáo này đã được phủ thêm một lớp ngụy trang như một lớp sơn mới vậy. Dùng đầu óc để gạt bỏ nó đi khá khó, thậm chí còn gây đau đớn. Cánh cửa gỗ cao cao tỏa sáng như thể mới được đánh véc-ni.

Trong không gian có mùi là lạ, giống như mùi ozone và mùi khen khét. Nhíu mày, cô đặt tay lên quả đấm cửa. Tôi là Clary Morgenstem, một trong những Nephilim, và tôi yêu cầu được bước chân vào Học Viện-

Cửa bật mở. Clary bước vào trong. Cô nhìn quanh, chớp mắt, cố nhận xem cái gì cho cô cảm giác khác biệt về không gian bên trong nhà thờ. Cô nhận ra khi cửa chính đóng lại sau lưng, nhốt cô trong khung cảnh u tối chỉ được thắp sáng bởi ánh sáng nhờ nhờ từ ô cửa sổ hoa hồng cao cao phía tiên. Cô chưa từng ở trong Học Viện khi không có hàng ngàn ánh lửa nhỏ xíu trên những giá nến nằm dọc hành lang giữa hàng ghế nguyện.

Cô lôi ngọn đèn phù thủy trong túi ra và giơ lên. Viên đá bừng sáng, tỏa đi hàng ngàn tia sáng qua những kẽ tay. Nó rọi qua những góc nhà thờ khi cô tiến tới thang máy gần bệ thờ trống không và bực bội nhấn nút.

Không có gì xảy ra. Sau nửa phút, cô ấn nút một lần nữa - và lần nữa. Cô ép tai vào cửa thang máy và nghe ngóng. Không có một tiếng động. Học Viện tối om và im lìm, giống như một con búp bê máy mà trái tim cơ khí đã ngừng hoạt động.

Giờ trống ngực đập dồn dập, Clary vội vã trở lại hành lang và đẩy cánh cửa nặng trịch mở. Cô đứng trên những bậc cửa trước của nhà thờ, hoảng hốt nhìn quanh. Bầu trời đã chuyển sắc sẫm của màu xanh cô ban, mùi khét bắt đầu nặng nề hơn. Chẳng nhẽ có hỏa hoạn? Chẳng nhẽ các Thợ Săn Bóng Tối đã di tản sao? Nhưng nơi này vẫn chẳng mảy may bị tổn hại...

“Không phải hỏa hoạn đâu.” Một giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng và quen thuộc vang lên. Một dáng hình cao cao bước ra khỏi bóng tối, mái tóc mái dựng ngược một cách vô duyên. Anh ta mặc áo véc lụa đen bên ngoài áo sơ mi xanh ngọc bích lấp lánh, trên những ngón tay gầy đeo đầy những chiếc nhẫn đá quý sáng loáng. Tất nhiên, anh ta đang đi đôi giày đắt tiền và trên người rắc khá nhiều kim tuyến.

“Magnus?” Clary thì thầm.

“Tôi biết cô đang nghĩ gì,” Magnus nói. “Nhưng không có hỏa hoạn. Cái mùi đó là sương mù địa ngục - một dạng khói quỷ bị phù phép. Nó ngăn cản hiệu lực của một số loại phép thuật nhất định.”

“Sương mù quỷ? Vậy là có…”

“Một vụ tấn công vào Học Viện. Đúng. Ngay đầu giờ chiều. Những Kẻ Lầm Đường - có lẽ là vài tá.”

“Jace,” Clary thì thào. “Nhà Lightwood…”

“Khói địa ngục ngăn khả năng chiến đấu chống lại Kẻ Lầm Đường của tôi. Của họ nữa. Tôi đã mở Cổng Dịch Chuyển để đưa họ tới Idris.”

“Nhưng không ai bị thương chứ?”

“Madeleine,” Magnus nói. “Madeleine bị giết. Tôi xin lỗi, Clary.”

Clary ngồi sụp xuống bậc thềm. Cô không biết nhiều về người phụ nữ đó, nhưng cô Madeleine có chút quan hệ với mẹ - mẹ thực sự, một Thợ Săn Bóng Tối kiên cường trong chiến đấu mà Clary không hề biết đến.

“Clary?” Chú Luke đang bước trên đường nhỏ dẫn qua bóng tối đang dần buông xuống. Chú đang xách va li của Clary. “Sao thế?”

Clary đang ngồi bó gối trong khi Magnus giải thích. Đằng sau nỗi buồn thương của cô cho cái chết của cô Madeleine, cô đang có cảm giác an tâm tội lỗi. Jace vẫn ổn. Nhà Lightwood vẫn ổn. Cô thầm nhắc đi nhắc lại. Jace vẫn ổn.

“Kẻ Lầm Đường,” chú Luke nói. “Chúng bị giết hết chưa?”

“Không hết được.” Magnus lắc đầu. “Sau khi tôi đưa nhà Lightwood đi qua Cổng Dịch Chuyển, lũ Kẻ Lầm Đường đã giải tán; chúng không có hứng thú với tôi. Lúc tôi đóng Cổng Dịch Chuyển, chúng đã cút hết.”

Clary ngẩng đầu. “Cổng Dịch Chuyển đã đóng? Nhưng - ông vẫn thể đưa tôi tới Idris, đúng không?” cô hỏi. “Ý tôi là, tôi có thể đi qua Cổng Dịch Chuyển và tới gặp nhà Lightwood ở đó, đúng không?”

Chú Luke và Magnus nhìn nhau. Chú Luke đặt va li xuống.

“Magnus?" Clary cao giọng hỏi, chính bản thân còn thấy giọng mình chói tai. “Tôi phải đi.”

“Cổng Dịch Chuyển đã đóng rồi, Clary”

“Vậy mở cái khác!”

“Không dễ thế đâu,” pháp sư nói. “Clave canh gác mọi lối vào bằng phép thuật tới Alicante rất cẩn mật. Với họ, thủ đô là nơi linh thiêng - nó giống như Vatican của họ, Tử Cấm Thành của họ. Không một cư dân của Thế giới Ngầm nào được phép đặt chân vào khi chưa được họ cho phép, người thường cũng vậy.”

“Nhưng tôi là Thợ Săn Bóng Tối!”

“Hơi hơi thôi,” Magnus nói. “Hơn nữa, những tòa tháp ngăn cản mọi Dịch Chuyển dẫn thẳng tới thành phố. Nếu tôi mở cổng Dịch Chuyển đi qua Alicante, tôi phải báo trước để họ đón cô ở bên kia. Nếu tôi tự ý gửi cô qua, điều đó vi phạm Luật, và tôi không muốn gặp rắc rối vì cô, bánh quy ạ, dù bản thân tôi thích cô thế nào.”

Clary nhìn từ gương mặt khó xử của Magnus tới gương mặt mệt mỏi của chú Luke. “Nhưng tôi cần tới Idris,” cô nói. “Tôi cần giúp mẹ. Phải có cách tới đó chứ, một cách nào đó không liên quan tới Cổng Dịch Chuyển.”

“Sân bay gần nhất cách đây một đất nước,” chú Luke nói. “Nếu chúng ta có thể vượt biển - khả năng “nếu” đó rất khó - chúng ta sẽ phải di chuyển một đoạn đường dài và nguy hiểm, qua đủ loại lãnh thổ của cư dân Thế Giới Ngầm. Chúng ta sẽ phải mất nhiều ngày.

Mắt Clary nóng lên. Mình sẽ không khóc, cô tự nhủ. Mình sẽ không.

“Clary.” Giọng chú Luke thật nhẹ nhàng. “Chúng ta sẽ liên lạc với nhà Lightwood. Chúng ta sẽ cho họ mọi thông tin cần thiết để họ có thể lấy được thuốc giải cho mẹ Jocelyn của cháu. Họ có thể liên lạc với Fell-”

Nhưng Clary đã đứng dậy, lắc đầu. “Phải là cháu,” cô nói. “Cô Madeleine nói Fell không muốn nói chuyện với ai khác.”

“Fell? Ragnor Fell?” Magnus nhắc lại. “Tôi có thể gửi thư cho ông ta. Cho ông ấy biết người ông ta cần gặp là Jace.”

Chú Luke đã bớt lo lắng đôi chút. “Clary, cháu có nghe thấy không? Với sự giúp đỡ từ Magnus-”

Nhưng Clary không nghe thêm chút nào về sự giúp đỡ từ Magnus. Cô không muốn nghe thêm gì hết. Cô đã tưởng cô sẽ đi cứu mẹ và giờ cô chẳng biết làm gì hơn ngoài ngồi bên giường bệnh, nắm lấy bàn tay thiếu sức sống của mẹ và hy vọng một ai đó, ở một nơi nào đó, có thể làm điều cô không thể làm.

Cô loạng choạng bước xuống, gạt chú Luke sang bên khi chú cố nắm lấy tay cô. “Cháu cần ở một mình một lúc.”

“Clary-” Cô nghe chú Luke đang gọi tên cô, nhưng cô vẫn lao đi về phía bên kia nhà thờ. Cô thấy mình đang đi trên nhánh rẽ tới khu vườn nhỏ ở phía đông Học Viện, về phía bốc mùi than và khói - và một thứ mùi đậm đặc, khó chịu ẩn sau nó. Mùi của ma thuật. Trong vườn vẫn còn sương mù, rải rác đây đó chút ít như những dải mây quấn trên khóm hồng đây đó hay dưới một tảng đá. Cô có thể thấy nơi đấy bị cày lên do trận ẩu đả - và trên đó vẫn còn một vết máu khô sậm bên chiếc ghế đá, vệt máu mà cô không muốn nhìn lâu.

Clary quay đâu đi. Và ngừng lại. Ở đó, trên tường nhà thờ, có những dấu ấn không lẫn đi đâu được của phép thuật của chữ rune, đang ra ánh sáng xanh lá nhạt, nóng trên nền đá xám. Chúng tạo thành hình vuông, giống như một viền sáng quanh một cánh cửa khép hờ-

Cổng Dịch Chuyển.

Cái gì đó bên trong cô dường như đang quặn lại. Cô nhớ tới những ký hiệu khác, tỏa sáng một cách nguy hiểm trên bề mặt kim loại trơn nhẵn của con tàu. Cô nhớ con tàu đã rùng mình như thế nào khi gẫy làm đôi, màn nước đen của dòng East River tràn vào ra sao. Chúng chỉ là những chữ rune, cô nghĩ. Những ký hiệu. Mình có thể vẽ chúng. Nếu mẹ mình nhốt bản thể của Cốc Thánh bên trong một mẩu giấy thì mình có thể tạo ra một Cổng Dịch Chuyển.

Cô cảm nhận đôi chân đang mang cô tới bức tường nhà thờ, bàn tay cô đang nhét vào trong túi để lấy thanh stele. Mừng vì tay không hề run, cô ấn đầu mũi thanh stele lên đá.

Cô nhắm chặt mắt và, bên trong bóng tối sau mí mắt, bắt đầu dùng tâm trí vẽ nên những đường vòng ánh sáng. Những đường nét nói với cô về lối vào, về việc được mang đi trong những cơn gió lốc, về việc di chuyển và tới những nơi xa xôi. Những đường nét hợp thành một chữ rune duyên dáng như một chú chim. Cô không biết liệu đã từng có chữ rune này hay đây là một chữ rune do chính cô sáng tạo ra, nhưng giờ nó tồn tại như luôn luôn tồn tại.

Cổng Dịch Chuyển.

Cô bắt đầu vẽ, những dấu ấn nhảy nhót trên đầu thanh stele thành những đường đen như than đá. Bức tường đá kêu xì xèo, khiến cô chỉ ngửi thấy mùi cay cay của a xít cháy. Ánh sáng xanh lam bỏng rát càng lúc càng sáng rực sau mí mắt nhắm chặt. Cô cảm nhận được hơi nóng phả lên mặt, như thể đang đứng trước một đống lửa. Với một tiếng thở dốc cô hạ tay xuống, mở mắt ra.

Chữ rune cô vẽ trông như một đóa hoa đen nở rộ trên tường đá. Khi cô quan sát, những đường nét của nó dường như đang tan ra và thay hình đổi dạng. Giờ nó trở thành một khung cửa phát sáng, cao hơn Clary khoảng vài foot.

Cô không thể nào rời mắt khỏi khung cửa. Nó tỏa ra ánh sáng sẫm màu hệt như Cổng Dịch Chuyển sau tấm rèm nhà Quý Bà Dorothea. Cô vươn tay tới - rồi rụt lại. Cô buồn bã nhớ ra, để sử dụng được Cổng Dịch Chuyển, cô phải tưởng tượng được nơi muốn tới. Nhưng cô chưa từng tới Idris. Tất nhiên, cô đã từng nghe kể về nó. Một nơi với những thung lũng xanh rì, với cánh rừng già và dòng nước trong vắt, với những con hồ và ngọn núi, và Alicante, thành phố của những ngọn tháp pha lê. Cô có thể tưởng tượng ra nó trông như thế nào, nhưng khi sử dụng loại phép thuật này thì tưởng tượng thôi là chưa đủ. Giá mà-

Cô đột nhiên hít một hơi sâu. Nhưng cô đã thấy Idris. Cô đã thấy nó trong giấc mơ và cô biết, không hiểu vì sao, rằng đó là giấc mơ có thực. Sau cùng, trong giấc mơ Jace đã nói gì với cô về Simon nhỉ? Rằng cậu không thể ở lại vì “nơi đó dành cho người sống”? Và không lâu sau đó, Simon đã chết-

Cô nhớ lại giấc mơ nọ. Cô đã nhảy trong sảnh đường khiêu vũ của Alicante. Những bức tường màu vàng và trắng với mái nhà trong suốt như kim cương. Ở nơi đó có đài phun nước - một chiếc đĩa bạc với tượng nàng tiên cá ở trung tâm - và đèn trang hoàng trên những thân cây ngoài ô cửa sổ, còn Clary mặc chiếc áo nhung xanh, đúng như lúc này.

Như thế cô vẫn còn trong mơ, cô vươn tay về phía Cổng Dịch Chuyển. Một luồng ánh sáng rực rỡ tỏa rộng từ nơi ngón tay cô chạm vào, cánh cửa mở tới một nơi tràn ngập ánh sáng. Cô thấy mình đang nhìn vào xoáy nước vàng đang từ từ, chậm rãi hình thành nên những hình ảnh cô nhận ra được - cô nghĩ mình có thể thấy những ngọn núi, một góc trời mờ xa-

“Clary!” Đó là chú Luke, hớt hải chạy trên con đường mòn, đeo tấm mặt nạ của giận dữ và phật lòng. Đằng sau chú, Magnus đang rảo bước tới, đôi mắt mèo sáng như kim loại dưới ánh sáng nóng của Cổng Dịch Chuyển đang tỏa rộng khắp khu vườn. “Clary, dừng lại! Các kết giới nguy hiểm lắm! Cháu sẽ chết đấy!”

Nhưng chẳng có gì có thể ngăn nổi cô. Đằng sau Cổng Dịch Chuyển, ánh sáng vàng đang càng lúc càng sáng hơn. Cô nghĩ tới những bức tường vàng của Đại Sảnh trong giấc mơ, ánh sáng vàng chiếu tới những tấm gương kính và được phản chiếu đi khắp. Chú Luke nói sai rồi; chú không hiểu năng khiếu của cô, về khả năng của nó - những kết giới đã có là gì khi bạn có thể tạo ra thực tế cho bạn chỉ bằng vài ba nét vẽ? “Cháu phải đi,” cô vừa hét trả lời vừa tiến lên phía trước, những ngón tay duỗi ra. “Chú Luke, cháu xin lỗi-”

Cô tiến tới - và với một cú nhảy cuối cùng, đẹp mắt, chú đã đứng bên cô, nắm lấy cổ tay cô, ngay khi Cổng Dịch Chuyển dường như đang nổ tung xung quanh họ. Giống như một cơn lốc xoáy đủ làm cây bật gốc, lực tác động nhấc bổng họ. Clary thoáng nhìn thấy lần cuối cùng những chiếc xe và những tòa nhà của Manhattan cuộn tròn rồi dần rời xa cô, biến mất trong luồng gió mạnh vùn vụt đang tóm lấy cô, thổi bay cô đi, cổ tay cô vẫn nằm gọn trong cái nắm tay chắc như gọng kìm của chú Luke, chui vào trong vòng hỗn mang của sắc vàng kia.

Simon bị đánh thức vì tiếng nước vỗ từng đợt. Cậu ngồi thẳng dậy, sự hoảng hốt đột ngột đóng băng trong lồng ngực – lần cuối cùng cậu tỉnh dậy vì tiếng sóng, cậu là tù nhân trên con tàu của Valentine và âm thanh rì rào nhẹ nhàng kia đưa cậu trở lại cái khoảnh khắc kinh hoàng khi đó một cách tức thì như bị dội một gáo nước lạnh vậy.

Nhưng không - chỉ cần nhìn nhanh xung quanh cậu đã biết rằng cậu đang ở nơi hoàn toàn khác. Ít nhất, cậu được nằm trong tấm chăn mềm mại trên chiếc giường gỗ rộng rãi tại một căn phòng nhỏ sạch sẽ có những bức tường sơn màu xanh lam nhạt. Những tấm rèm tối màu che ngang ô cửa sổ, nhưng ánh sáng nhàn nhạt chiếu quanh viền là đủ cho đôi mắt ma cà rồng nhìn mọi thứ rõ ràng. Trên sàn đặt tấm thảm sáng màu và bên kia tường là một chiếc tủ chạn gương.

Bên cạnh giường còn có một chiếc ghế tựa. Simon ngồi dậy, chiếc chăn rơi xuống và cậu nhận ra hai điều: thứ nhất, cậu vẫn mặc chiếc quần bò và áo phông như khi tới Học Viện gặp Jace; thứ hai, cái người ngồi trên ghế tựa đang ngủ gà ngủ gật, tay chống đầu ngủ, mái tóc dài đen đổ xuống như chiếc khăn choàng đính diềm.

“Isabelle,” Simon gọi.

Đầu cô nàng ngẩng phắt lên như chiếc hộp hề-lò-xo dọa trẻ con, đôi mắt choàng tỉnh. “Ối! Cậu dậy rồi!” Cô nàng ngồi thẳng dậy, vuốt tóc lên. “Jace sẽ mừng lắm đây. Bọn mình cứ tưởng cậu sắp chết.”

“Chết?” Simon nhắc lại. Cậu cảm thấy chóng mặt và có chút buồn nôn. “Vì gì?” Cậu chớp mắt nhìn quanh phòng. “Mình trong Học Viện à?” cậu hỏi, và nhận ra ngay khi vừa thốt lên lời, rằng đó là điều không thể. “Ý mình là - chúng ta ở đâu thế?”

Vẻ khó chịu thoáng hiện trên gương mặt Isabelle. “Ơ - vậy là cậu không nhớ ra chuyện xảy ra tại khu vườn?” Cô nàng lo lắng kéo phần diềm móc quanh đệm ghế. “Những Kẻ Lầm Đường tấn công bọn mình. Có rất nhiều, và khói địa ngục khiến cho bọn mình khó lòng chống trả. Magnus mở Cổng Dịch Chuyển, và bọn mình đang lao vào đó thì mình thấy cậu tiến tới. Cậu vấp- vấp phải cô Madeleine. Và ngay sau cậu có một Kẻ Lầm Đường khác; chắc chắn cậu không nhìn thấy hắn nhưng Jace thì có. Anh ấy cố lôi cậu đi, nhưng đã quá muộn. Con dao của Kẻ Lầm Đường đã đâm trúng cậu. Cậu chảy máu - rất nhiều. Thế rồi Jace giết chết Kẻ Lầm Đường và tóm cậu lôi qua Cổng Dịch Chuyển cùng anh ấy,” Isabelle kể xong, nói liến thoắng tới mức các từ cứ dính vào nhau và Simon phải căng tai mà nghe. “Và bọn mình đã ở bên kia, và để mình nói cho cậu nghe, mọi người rất ngạc nhiên khi Jace đi qua cùng với cậu toàn thân đẫm máu. Quan Tổng Tài không hề hài lòng chút nào.”

Miệng Simon khô khốc. “Một Kẻ Lầm Đường đã đâm mình?” Không thể. Nhưng rồi, cậu đã từng lành lặn như cũ, sau khi Valentine cắt cổ cậu. Nhưng, ít ra cậu phải nhớ chứ. Lắc đầu, cậu cúi xuống nhìn khắp người. “Ở đâu?”

“Để mình chỉ cho cậu.” Cậu cực kỳ bật ngờ khi một lát sau Isabelle đã ngồi lên giường bên cạnh cậu, bàn tay mát lạnh của Isabelle đặt lên phần cơ hoành. Cô kéo áo cậu lên, để lộ ra phần ổ bụng trắng xanh, bị chia đôi bởi một đường đỏ mảnh. Nó không đáng là một vết sẹo. “Đây,” cô nói, ngón tay lướt nhẹ trên đó. “Cậu không đau sao?”

“K-không.” Lần đầu tiên Simon nhìn thấy Isabelle, cậu thấy cô quá lộng lẫy, quá rực rỡ, tràn đầy nhựa sống, sinh khí cùng năng lượng, và cậu những tưởng cuối cùng đã tìm được một cô gái có ánh sáng có thể xua đi hình ảnh Claiy luôn luôn in sâu trong trí óc cậu. Ngay đúng lúc cô để cậu biến thành chuột trong bữa tiệc của Magnus Bane thì cậu nhận ra ánh sáng nơi Isabelle quá chói lọi đối với một gã con trai bình thường như cậu. “Không hề đau chút nào.”

“Bụng cậu không đau nhưng mắt tôi thì đang nhức đây này,” một giọng lạnh tanh vui vẻ phát ra ở ngưỡng cửa. Jace. Anh bước tới êm ru khiến ngay cả Simon cũng chẳng nghe thấy; đóng cửa lại sau lưng, anh ta cười trong khi Isabelle kéo áo Simon xuống. “Gạ gẫm một gã trai ma cà rồng trong khi hắn ta còn yếu không thể chống trả được hả, Iz?” anh hỏi. “Anh chắc chắn điều đó phải vi phạm ít nhất một điều luật trong Hiệp Định.”

“Em chỉ cho cậu ấy chỗ bị đâm thôi,” Isabelle cự nự, nhưng cô nàng đã lật đật trở lại ghế. “Chuyện gì đang xảy ra dưới lầu thế?” cô hỏi. “Mọi người vẫn hoảng à?”

Nụ cười rời khỏi khuôn mặt Jace. “Mẹ Maryse sẽ tới Gard cùng chú Patrick,” anh nói. “Clave đang họp và Malachi nghĩ sẽ tốt hơn nếu mẹ...tự mình...giải thích.”

Malachi. Patrick. Gard. Những cái tên xa lạ quay mòng mòng trong đầu óc Simon. “Giải thích cái gì?”

“Giải thích về cậu,” Jace đáp cụt lủn. “Giải thích vì sao chúng tôi mang một ma cà rồng tới Alicante, à mà, điều đó hoàn toàn vi phạm Luật.”

“Tới Alicante? Chúng ta đang ở Alicante?” Một đợt sóng hoảng hốt thực sự tràn qua Simon, nhưng nhanh chóng bị thay thế bởi cảm giác đau đớn chạy dọc thân người. Cậu cúi gập người, thở dốc.

“Simon!” Isabelle vươn tay, trong đôi mắt đen lộ rõ sự hoảng hốt. “Cậu ổn không?”

“Đi đi, Isabelle.” Simon, tay nắm thành quyền ấn chặt lên bụng, ngước nhìn Jace, giọng nài nỉ. “Bảo Izzy đi đi.”

Isabelle chùn người lại, nét mặt hiện rõ sự tổn thương. “Được rồi. Tôi đi. Cậu không phải nhắc hai lần.” Cô đứng phắt dậy và rời khỏi phòng, đóng sầm cửa lại. Jace quay sang nhìn Simon, đôi mắt màu hổ phách không biểu lộ cảm xúc. “Chuyện gì thế? Tôi nghĩ cậu đã lành rồi chứ.”

Simon giơ tay lên vẫy cậu con trai kia đi. Vị tanh tanh cháy bỏng trong cổ họng cậu. “Không phải do Isabelle,” cậu rên rỉ. “Tôi không bị thương… chỉ là tôi…đói thôi.” Cậu cảm thấy má đang nóng dần. “Tôi mất máu, vì thế... tôi cần bù máu.”

“Tất nhiên,” Jace nói, bằng cái giọng của một người vui vẻ trước một sự việc thú vị, nếu không muốn nói là trước một hiện tượng khoa học. Chút lo lắng đã rời bỏ gương mặt anh, được thay thế bằng cái gì đó với Simon giống như sự khinh miệt vui thích. Simon nhận thấy cảm giác bực bội đang cuộn trào trong dạ dày, và nếu cậu không đang bị suy nhược, cậu sẽ nhảy khỏi giường và lao ngay vào cậu con trai kia. Nhưng, như thường lệ, điều cậu có thể làm chỉ là thở dốc. “Quỷ tha ma bắt anh đi, Wayland.”

“Wayland, đúng không?” Cái vẻ hứng thú chưa từng rời khỏi gương mặt Jace, nhưng đôi tay anh đã lần tới cổ và bắt đầu kéo khóa áo.

“Không!” Simon lùi lại giường. “Tôi không quan tâm tôi đói thế nào. Tôi không.. .uống máu anh...lần nữa.”

Miệng Jace giần giật. “Làm như tôi cho phép ấy.” Anh ta cho tay vào trong túi áo khoác và lôi ra cái chai thủy tinh. “Tôi nghĩ cậu sẽ cần cái này,” anh nói. “Tôi vắt máu từ vài ba pound thịt tươi trong bếp. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm.”

Simon cầm lấy cái chai bằng đôi tay đang run dữ dội khiến cậu con trai kia phải mở nắp hộ anh. Chất lỏng bên trong bốc mùi quá nồng - quá ít vị máu và quá nhiều muối không đúng như khẩu vị của cậu, và qua cái mùi khó chịu ấy Simon biết miếng thịt đó đã để trong bếp vài ba ngày rồi.

“Eo,” cậu nói sau khi nhấp vài ngụm. “Máu chết.”

Lông mày Jace nhướn lên. “Không phải lúc nào cũng là máu chết sao?”

“Máu động vật để càng lâu vị sẽ càng tệ,” Simon giải thích. “Máu tươi vẫn tốt hơn.”

“Nhưng cậu chưa từng uống máu tươi. Đúng không?”

Simon nhướn mày đáp lại.

“À, tất nhiên là trừ máu tôi,” Jace nói. “Và tôi tin máu tôi tuyệt cú mèo.”

Simon đặt cái chai không lên tay ghế bên giường. “Hình như anh bị chập mạch ở đâu đó thì phải,” cậu nói. “Tôi đang nói về khoản đầu óc.” Miệng cậu vẫn còn nếm được vị máu hỏng, nhưng cảm giác đau đớn đã qua đi. Cậu cảm thấy tốt hơn, khỏe hơn, như thể máu là liều thuốc tiên chữa bệnh tức thì, một liều thuốc mà cậu phải uống để sống. Cậu tự hỏi liệu nó có giống với nghiện heroin không. “Vậy là tôi ở Idris.”

“Chính xác hơn là ở Alicante,” Jace nói. “Thủ đô. Thành phố duy nhất, thực sự đấy.” Anh bước tới cửa sổ và kéo rèm. “Nhà Penhallow không tin chúng tôi,” anh nói. “rằng mặt trời không gây ánh hưởng gì tới cậu. Họ treo những tấm rèm chắn sáng này lên. Nhưng cậu nên nhìn này.”

Đứng dậy khỏi giường, Simon tới đứng cạnh Jace bên khung cửa sổ.

Một vài năm trước mẹ cậu đã đưa cậu và chị gái đi du lịch tời Tuscany[3] - một tuần với những đĩa pasta ú ụ mang hương vị là lạ, những ổ bánh mì nhạt thếch, một miền quê đất nâu và mẹ cậu đã đi trên những con đường hẹp ngoằn ngoèo, cố gắng hết mức để tránh cho chiếc xe Fiat của họ không đâm vào những dãy nhà cổ kính xinh đẹp mà họ tới thăm quan. Cậu nhớ đã dừng trên sườn đồi ở phía bên kia San Gimignano, một thị trấn với những ngôi nhà màu đồng đỏ và những ngọn tháp kiêu hãnh vươn thẳng lên bầu trời. Nếu quang cảnh cậu đang nhìn ngắm gợi cho cậu lại điều gì, thì chính là về nơi đó; nó quen mắt thật đấy, nhưng lại là một quang cảnh xa lạ cậu chưa từng chiêm ngưỡng trong đời.

[3] Tuscany là một vùng của Italia, với thủ phủ là Florence

Cậu đang nhìn qua ô cửa sổ tầng trên của một ngôi nhà hẳn là cao lắm. Nếu cậu ngước nhìn lên, cậu có thể thấy mái hiên đá nhô ra và khoảnh bầu trời trên đó. Đối diện là một căn nhà khác, không cao bằng, và giữa chúng là một con kênh hẹp, nước đen vì trời tối, ba cây cầu bắc qua ở đôi chỗ - tiếng nước cậu nghe thấy lúc trước hóa ra bắt nguồn từ đây. Căn nhà có vẻ được xây ở lưng chừng đồi - bên dưới nó là những căn nhà đá màu mật ong, nằm rải rác dọc những con đường nhỏ, dừng lại tại rìa một vòng tròn màu xanh lá - một khu rừng, được bao quanh bởi những ngọn đồi rất xa; từ đây trông chúng giống như những dải lụa xanh và nâu điểm xuyết đôi ba nét chấm phá màu vàng của mùa thu. Đằng sau những ngọn đồi là những dãy núi tuyết phủ nhấp nhô cao thấp.

Những cảnh tượng đó chẳng có gì kỳ lạ; điều lạ là đây đó ngay trong thành phố, như thể được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, là những ngọn tháp, có chóp cấu tạo bằng một thứ nguyên liệu trắng bạc phản chiếu ánh nắng lấp lánh, vươn thẳng lên trời. Chúng giống như những lưỡi dao găm sáng loáng rạch toang bầu trời và Simon nhận ra cậu đã nhìn thấy loại nguyên liệu này ở đâu: trong những món vũ khí cứng giống pha lê mà các Thợ Săn Bóng Tối thường mang bên mình, thứ họ gọi là con dao thiên thần.

“Đó là những ngọn tháp quỷ,” Jace nói, trả lời cho câu hỏi chưa thành tiếng của Simon. “Chúng kiểm soát các kết giới bảo vệ thành phố. Nhờ có chúng mà không một con quỷ nào lọt vào Alicante được.”

Qua ô cửa sổ, những luồng không khí mát lạnh và trong lành, một loại không khí cậu không bao giờ được hít thở ở New York tràn vào: nó chẳng có mùi vị, không lẫn chút bụi bẩn, khói thải, kim loại hay mùi người. Chỉ không khí mà thôi. Simon hít sâu một hơi không cần thiết trước khi quay sang Jace; có một vài thói quen thuộc về kiếp người thật khó lòng bỏ trong ngày một ngày hai. “Hãy nói với tôi,” cậu nói, “rằng không phải ngẫu nhiên mà anh lôi tôi tới đây. Nói với tôi rằng việc này không liên quan tới việc anh muốn ngăn Clary tới đây cùng anh.”

Jace không nhìn nhưng ngực phập phồng lên xuống một lần, rất nhanh, như khi người ta thở dài chán nản. “Đúng,” anh nói. “Tôi tạo ra một đống chiến binh Lầm Đường, cho chúng tấn công Học Viện và giết chết cô Madeleine và và suýt lấy mạng toàn bộ chúng tôi, chỉ để giữ Clary ở nhà đấy. Và lạ chưa kìa, kế hoạch độc ác của tôi của tôi đang thành công.”

“Ừm, nó đang thành công,” Simon nhỏ nhẹ nói. “Đúng không?”

“Nghe này, ma cà rồng,” Jace nói. “Giữ Clary tránh xa Idris là kế hoạch. Mang cậu tới đây thì không. Tôi mang cậu qua Cổng Dịch Chuyển chỉ vì nếu tôi bỏ cậu lại trong tình trạng máu chảy đầm đìa và bất tỉnh nhân sự, những Kẻ Lầm Đường sẽ giết cậu.”

“Anh có thể ở lại cùng tôi…”

“Chúng sẽ giết cả hai chúng ta. Tôi không biết ở đó có bao nhiêu kẻ nữa, khi sương mù địa ngục vẫn còn đó. Ngay đến tôi cũng chẳng thể đẩy lùi một trăm Kẻ Lầm Đường.”

“Tuy nhiên,” Simon nói, “tôi cá rằng việc thú nhận điều đó khiến anh đau lòng.”

“Cậu là đồ vô ơn,” Jace nói mà không thay đổi giọng điệu, “thậm chí khi so sánh ở mức độ cư dân Thế Giới Ngầm. Tôi cứu mạng cậu và phá luật để làm điều đó. Tôi phải nói thêm, đây không phải lần đầu tiên. Cậu ít ra phải tỏ chút biết ơn chứ.”

“Biết ơn?” Simon cảm nhận những ngón tay đang bấm vào lòng bàn tay. “Nếu anh không lôi tôi tới Học Viện, tôi cũng không thể ở đây. Tôi chưa bao giờ đồng ý với chuyện này.”

“Ồ có chứ,” Jace nói, “khi cậu nói sẽ làm bất cứ điều gì vì Clary. Đây là bất cứ điều gì đấy.”

Trước khi Simon kịp há miệng đáp trả một câu sâu cay nào đó, ngoài cửa vang lên tiếng cốc cốc. “Xin chào?” Isabelle nói vọng từ bên kia cửa. “Simon, giây phút thăng hoa của cậu qua chưa? Mình cần nói chuyện với Jace.”

“Vào đi, Izzy.” Jace không rời mắt khỏi Simon; trong ánh mắt anh ta có tia giận dữ, và một kiểu thách thức khiến Simon chỉ muốn dùng một thứ thật nặng quăng vào anh ta. Như chiếc xe bán tải chẳng hạn.

Isabelle bước vào phòng với suối tóc đen óng ả và chiếc váy tầng màu bạc. Chiếc áo hai dây màu ngà voi để lộ tay và bả vai, khoe ra những chữ rune bằng mực đen. Simon nghĩ cô nàng thích được khoe những Ấn Ký ở nơi mà không ai nghĩ chúng có gì là kỳ dị.

“Alec đang đi tới Gard,” Vừa vào tới nơi Isabelle liền nói. “Alec muốn nói với anh về Simon trước khi đi. Anh xuống nhà được không?”

“Được thôi.” Jace đi tới cửa; được nửa đường, nhận ra Simon đang đi theo, Jace liền lườm. “Cậu ở lại đây.”

“Không,” Simon nói. “Nếu anh muốn bàn luận về tôi, tôi muốn được mà nghe.” Trong khoảnh khắc, có vẻ cái mặt nạ bình thản khó ưa của Jace sắp nứt; mặt anh ta đỏ lựng và anh ta mở miệng, ánh mắt tóe lửa. Nhưng ngay lập tức, cơn giận biến mất, rõ ràng là nhờ ý chí. Anh ta nghiến răng và mỉm cười. “Được,” anh ta nói. “Đi xuống nhà đi, ma cà rồng. Cậu có thể gặp toàn bộ gia đình vui vẻ.”

Lần đầu Clary đi qua Cổng Dịch Chuyển, cô thấy mình như bay và mất trọng lượng. Nhưng lần này thì như bị ném vào giữa một cơn lốc xoáy vậy. Gió gào thét xung quanh cô, giằng cô khỏi tay chú Luke và cướp đi tiếng hét vừa rời miệng cô. Cô cảm thấy quay cuồng chui qua tâm của xoáy màu vàng và đen.

Thứ gì đó phẳng, cứng và có màu bạc như mặt gương càng lúc càng gần. Cô lao về phía nó, miệng thét vang còn tay giơ lên che mặt. Cô chạm vào mặt phẳng rồi lao xiên qua, chui vào thế giới của cái lạnh căm căm và nghẹt thở. Cô đang chìm vào trong bóng tối màu xanh đen mịt mùng, cố hít thở, nhưng không thể đưa nổi dù chỉ là một chút dưỡng khí vào phổi, chỉ có cái lạnh băng giá mà thôi-

Đột nhiên cô bị kéo lưng áo lôi ngược lên. Cô điên cuồng quẫy đạp nhưng quá yếu không thể chống cự nổi. Nó đẩy cô lên và bóng tối màu chàm xung quanh cô chuyển dần sang xanh lam nhạt rồi vàng khi cô chui khỏi mặt nước - nó là nước - và hít lấy hít để. Hoặc cố. Thay vào đó, cô nghẹt nước và khạc nhổ, những chấm đen nhảy múa trước mắt. Cô đang bị lôi đi trong dòng nước, rất nhanh, rêu cuốn và kéo cổ tay cổ chân cô - cô vặn người trong vòng tay đang giữ cô và thoáng liếc thấy một thứ gì đó ghê sợ, không phải sói cũng chẳng phải người, tai nhọn như mũi dao còn môi vén lên để lộ hàm răng sắc nhọn trắng ởn. Cô cố hét, nhưng chỉ có nước tràn vào.

Một lúc sau, cô rời khỏi mặt nước và bị ném lên nền đất cứng ẩm ướt. Có bàn tay đặt lên vai cô, ấn rịt mặt cô xuống đất. Bàn tay đó vuốt lên lưng cô, hết lần này tới lần khác, tới khi ngực cô đau thắt và cô ho ra được chút nước.

Cô vẫn còn đang khạc nhổ khi bàn tay đó lại lật cô nằm ngửa. Cô đang nhìn chú Luke, chỉ là một bóng đen tương phản với bầu trời xanh cao điểm mây trắng. Nét thanh lịch cô thường thấy trên gương mặt chú đã biến mất; chú không còn giống sói nữa, nhưng chú đang giận. Chú kéo cô vào tư thế ngồi, lắc cô thật mạnh, hết lần này tới lần khác, tới khi cô thở hổn hển và yếu ớt đẩy chú. “Chú Luke! Dừng lại! Chú đang làm đau cháu...”

Tay chú buông vai cô. Thay vào đó, một tay chú nắm chặt lấy cằm cô, buộc cô phải ngẩng đầu, đôi mắt chú quan sát nét mặt cô. “Nước,” chú nói. “Cháu ho hết nước ra chưa?”

“Cháu nghĩ hết rồi,” cô thều thào. Giọng cô yếu ớt vang ra khỏi cổ họng sưng đau.

“Thanh stele của cháu đâu?” chú hỏi, và khi cô chần chừ, giọng chú nghiêm khắc hơn. “Clary. Thanh stele của cháu. Tìm đi.”

Cô rời khỏi vòng tay chú và sờ lần túi áo ướt, trái tím chùng xuống khi những ngón tay chẳng cầm được gì ngoài thứ gì đó ươn ướt. Cô ngước gương mặt thê thảm lên nhìn chú Luke. “Cháu nghĩ cháu làm rơi nó xuống hồ rồi.” Cô sụt sịt. “Thanh...thanh stele của mẹ cháu...”

“Jesus, Clary.” Chú Luke đứng dậy, vô thức siết tay sau đầu. Chú cũng ướt như chuột lột, nước rỏ xuống thành dòng từ chiếc quần bò và áo khoác vải flannel dày sụ. Cặp kính chú thường đeo trễ xuống sống mũi đã biến đâu mất. Chú ủ rũ nhìn cô. “Cháu ổn rồi,” chú nói. Đó không phải một câu hỏi. “Ý chú là, bây giờ thì ổn. Cháu thấy khỏe không?”

Cô gật đầu. “Chú Luke, sao thế? Vì sao chúng ta lại cần thanh stele của cháu?”

Chú Luke chẳng nói chẳng rằng. Chú đang nhìn quanh như mong lượm lặt được vài tin tức từ khu vực xung quanh. Clary nhìn theo. Họ đang đứng bên bờ cái hồ kha khá lớn và khá rộng. Nước hồ màu xanh lam nhạt, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Cô tự hỏi liệu đây có phải nguồn ánh sáng vàng cô nhìn thấy qua Cổng Dịch Chuyển không. Giờ khi đang ở bên thay vì ở trong hồ, cô chẳng thấy cái hồ này có nguy hiểm nào. Nó được bao quanh bởi những ngọn đồi xanh rì điểm xuyết những hàng cây đang bắt đầu chuyển sang màu đỏ nhạt và vàng. Xa xa sau những ngọn đồi là những ngọn núi cao ngất, đỉnh núi phủ kín trong băng tuyết.

Clary rùng mình. “Chú Luke, khi chúng ta ở dưới nước - chú có hóa thành sói không? Cháu nghĩ cháu thấy-“

“Phần sói của chú bơi tốt hơn phần người,” Chú Luke đáp cụt ngủn. “Và khỏe hơn. Chú phải lôi cháu trong nước, và cháu không hợp tác nhiều.”

“Cháu biết,” cô nói. “Cháu xin lỗi. Chú không- chú không cần đi cùng cháu.”

“Nếu chú không đi, giờ cháu đã chết rồi,” chú thẳng thừng nói. “Magnus đã nói với cháu, Clary. Cháu không thể sử dụng Cổng Dịch Chuyển để tiến vào Thành Phố Pha Lê trừ khi có người đợi cháu ở bên kia cổng.”

“Magnus chỉ nói điều đó vi phạm Luật. Ông ta đâu có nói nếu cháu cố tới đó cháu sẽ bị nảy ra.”

“Anh ta đã nói với cháu là xung quanh Alicante có chăng kết giới để phòng có người Dịch Chuyển tới. Không phải lỗi của anh ta khi cháu quyết định nghịch thứ phép thuật mà cháu hầu như chẳng có tẹo teo kiến thức nào. Cháu có sức mạnh không có nghĩa là cháu biết cách sử dụng nó.” Chú nhăn mặt.

“Cháu xin lỗi,” Clary lí nhí đáp. “Chỉ là - mà chúng ta ở đâu đây?”

“Hồ Lyn,”' chú Luke trả lời. “Chú nghĩ Cổng Dịch Chuyển đã đưa chúng ta tới gần thành phố nhất mức nó có thể rồi thả chúng ta xuống. Chúng ta đang ở ngoại vi Alicante.” Chú nhìn quanh, lắc đầu nửa vì hứng khởi nửa vì mệt mỏi. “Cháu đã làm được, Clary. Chúng ta đã ở Idris.”

“Idris?” Clary nói và đứng đực mặt phóng tầm mắt sang bên kia hồ. Mặt hồ đang nháy mắt với cô bằng ánh mắt màu xanh da trời không hề gợn sóng. “Nhưng- chú nói chúng ta ở ngoại ô Alicante. Cháu không thấy thành phố đâu.”

“Chúng ta cách đó hàng dặm.” Chú Luke bảo. “Cháu có thấy mấy ngọn đồi đằng xa không? Chúng ta phải leo qua đó; thành phố ở bên kia đồi. Nếu chúng ta có xe, chúng ta có thể đến đó trong một tiếng, nhưng vì chúng ta phải đi bộ nên có thể chúng ta sẽ mất cả buổi chiều.” Chú nheo mắt nhìn bầu trời. “Chúng ta nên đi thôi.”

Clary thất vọng cúi nhìn mình. Viễn cảnh đi bộ rạc cả cẳng trong tình trạng quần áo ướt rượt chẳng ngon lành gì cho cam. “Không có cách nào khác-”

“Cách khác cho chúng ta hả?” chú Luke nói, và có sự bực bội vang lên trong giọng chú. “Cháu có ý kiến gì không Clary, vì cháu là người đưa chúng ta tới đây?” chú chỉ ra phía hồ. “Đường kia dẫn về phía những ngọn núi. Chỉ đi được vào những ngày hè oi nóng. Giờ mà đi, chúng ta chỉ tổ đóng băng đến chết trên đỉnh.” Chú quay người, chỉ ngón tay sang hướng khác. “Hướng kia dẫn hàng dặm vào trong rừng. Rừng già kéo dài tới tận biên giới. Trong rừng không hề có dân cư, ít nhất là không có con người. Vượt qua Alicante có các trang trại và nhà của người dân thôn quê. Có thể chúng ta có thể rời khỏi Idris, nhưng chúng ta vẫn phải vượt qua thành phố. Một thành phố, chú phải nói thêm, nơi những cư dân Thế Giới Ngầm không được chào đón gì cho cam.”

Clary há hốc miệng nhìn chú. “Chú Luke, cháu không biết-”

“Tất nhiên là cháu không biết. Cháu không biết tí gì về Idris. Cháu còn chẳng quan tâm tới Idris. Cháu chỉ buồn vì bị bỏ lại, giống một đứa nhỏ và cháu giận dỗi. Và giờ chúng ta ở đây. Lạc đường, lạnh cóng và-” Chú ngừng nói, mặt cau lại. “Đi thôi. Chúng ta bắt đầu đi.”

Clary đi theo chú Luke dọc theo bờ hồ Lyn trong im lặng thảm hại. Khi họ đi, mặt trời hong khô làn da và mái tóc cô, nhưng chiếc áo khoác nhung ngấm nước như miếng bọt biển. Nó treo trên người cô như một tấm rèm bằng chì nặng chình chịch trong khi cô dò dẫm qua những tảng đá và bùn, vội vã cố theo kịp những sải chân dài của chú Luke. Cô đã thử nói chuyện vài lần, nhưng chú Luke vẫn cương quyết giữ im lặng. Cô chưa từng làm điều gì quá tệ hại tới mức một lời xin lỗi không làm nguôi ngoai cơn giận của chú. Lần này có vẻ, chuyện hoàn toàn khác.

Những đỉnh đồi càng lúc càng cao hơn khi họ tiến lại gần, điểm xuyết những điểm tối màu như những vệt sơn màu đen. Khi Clary nhìn gần hơn, cô nhận ra chúng là những hang đá. Vài cái có vẻ khá sâu, ngoằn ngoèo dẫn vào trong bóng tối. Cô tưởng tượng ra dơi và những sinh vật có móng vuốt xấu xí đang trú ẩn trong màn đen mà rùng cả mình.

Cuối cùng, con đường mòn dắt ngang qua đỉnh đồi dẫn họ tới một con đường rải sỏi khá rộng. Hồ bị bỏ lại sau lưng họ, nhuộm màu chàm dưới ánh chiều chạng vạng. Con đường dẫn ngang qua đồng cỏ xanh rì kéo dài qua những ngọn đồi nhấp nhô đằng xa. Trái tim Clary chùng xuống; thành phố vẫn chẳng thấy đâu.

Chú Luke đang nhìn về phía những ngọn đồi với vẻ thất vọng rõ rệt “Chúng ta ở xa hơn chú tưởng. Đã quá lâu rồi-”

“Có thể nếu chúng ta tìm thấy một con đường lớn hơn,” Clary gợi ý, “chúng ta có thể vẫy xe, hoặc bắt xe vào thành phổ hay-“

“Clary. Ở Idris không có ô tô.” Nhìn thấy vẻ ngơ ngác của cô, chú Luke cười mà chẳng vui vẻ gì cho cam. “Những kết giới làm hỏng các cỗ máy cơ khí. Hầu hết các đồ công nghệ- điện thoại, máy tính, những gì đại loại thế - đều vô dụng ở đây. Alicante được thắp sáng - và cấp điện - chủ yếu nhờ đèn phù thủy.”

“Ồ,” Claiy nói lí nhí, “Vậy- giờ chúng ta còn cách thành phố bao xa?”

“Đủ xa.” Không nhìn cô, chú Luke vuốt cả hai tay lên mái tóc cắt ngắn. “Có điều này chú cần nói với cháu.”

Clary căng thẳng. Tất cả những gì Clary muốn lúc trước là chú Luke nói chuyện với cô; còn giờ cô chẳng muốn nữa. “Được mà chú-”

“Cháu có để ý,” chú Luke nói, “rằng không hề có thuyền bè trên hồ Lyn - không có bến thuyền - không một dấu hiệu nào cho thấy người dân Idris có lưu thông trên hồ?”

“Cháu cứ tưởng vì nơi đó xa khu dân cư.”

“Không phải. Nó chỉ cách Alicante vài giờ đi bộ- Thật ra là, cái hồ đó-“ chú Luke ngừng nói và thở dài. “Cháu có bao giờ để ý tới hình ảnh trên sàn thư viện của Học Viện New York?”

Clary chớp mắt. “Cháu có, nhưng cháu không biết đó là cái gì.”

“Đó là hình thiên thần trồi lên từ lòng hồ, cầm trên tay chiếc cốc và thanh kiếm. Đó là mô típ quen thuộc trong trang trí của Nephilim. Truyền thuyết kể rằng Thiên Thần Raziel đã nổi lên từ hồ Lyn khi lần đầu tiên xuất hiện trước Jonathan Thợ Săn Bóng Tối, Nephilim đầu tiên, và trao cho ông ta những Bảo Bối Thiên Thần. Kể từ đó, cái hồ đó-”

“Là thánh địa?” Clary nhắc bài.

“Bị nguyền rủa,” chú Luke nói. “Không hiểu sao nước hồ lại là thuốc độc với Thợ Săn Bóng Tối. Nó không gây tổn thương cho cư dân Thế Giới Ngầm - Tiên Tộc gọi hồ Lyn là Mộng Kính và họ uống nước hồ vì cho rằng, nó cho họ thấy sự thực. Nhưng nếu một Thợ Săn Bóng Tối uống nước hồ thì sẽ rất nguy hại. Nó gây ra ảo giác, sốt cao- nó có thể làm cho người ta phát điên.”

Clary thấy lạnh toàn thân. “Đó là lý do chú bắt cháu khạc hết nước ra.”

Chú Luke gật đầu. “Và đó là lý do chú muốn cháu tìm thanh stele. Với chữ rune trị thương, chúng ta có thể đẩy lùi ánh hưởng của nước hồ. Không có nó, chúng ta phải đưa cháu tới Alicante nhanh nhất có thể. Ở đó có thuốc thang, thảo dược có thể giúp cháu, và chú biết người chắc chắn có chúng.”

“Nhà Lightwood?”

“Không phải nhà Lightwood.” Giọng chú Luke rất cương quyết. “Người khác. Một người chú biết.”

“Ai?”

Chú lắc đầu. “Chúng ta hãy cầu nguyện người đó chưa rời đi trong mười lăm năm qua.”

“Nhưng cháu tưởng Luật cấm những người thuộc Thế Giới Ngầm tới Alicante khi chưa được cho phép.”

Nụ cười trả lời của chú là chút gì đó nhắc cho cô nhớ đến một chú Luke đã đỡ cô khi cô của thuở nhỏ ngã khỏi khung leo trèo trong công viên, một chú Luke luôn che chở cho cô. “Một vài Luật là để cho người ta vi phạm.”

Ngôi nhà của gia đình Penhallow nhắc Simon nhớ tới Học Viện - cả hai đều cho cậu cái cảm giác kiến trúc và đồ nội thất thuộc về một thời đại khác. Hành lang và cầu thang hẹp, làm từ đá và gỗ tối màu, còn những ô cửa cổ thì cao thon, nhìn ra khung cảnh thành phố. Ngôi nhà được trang trí đậm dấu ấn Á châu: tấm bình phong giấy của Nhật đặt ở tầng một, những bình sứ Trung Hoa nằm trên bậu cửa sổ. Trên tường treo khá nhiều tranh lụa vẽ những cảnh hẳn thuộc về truyền thuyết của Thợ Săn Bóng Tối, nhưng theo phong cách phương Đông - những vị thủ lĩnh vung cao con dao thiên thần sáng loáng được vẽ một cách ước lệ bên cạnh những sinh vật giống rồng và những con quỷ mắt lồi đồng tử dọc.

“Cô Penhallow - cô Jia - đã từng điều hành Học Viện Bắc Kinh. Cô ấy cứ chạy đi chạy lên giữa nơi đây và Tử Cấm Thành,” Isabelle giải thích khi Simon dừng lại ngắm nghía một bức hình. “Và nhà Penhallow là gia đình dòng dõi lâu đời. Rất giàu.”

“Nhìn là biết,” Simon lầm bầm và ngước nhìn những trúc đài treo buông rủ những viên pha lê trong suốt như những giọt lệ.

Jace, đi sau một bước, cằn nhằn. “Đi nhanh lên. Chúng ta không dẫn tua tham quan lịch sử ở đây.”

Simon bỏ qua câu móc máy khó chịu đó và quyết không để bụng. Cậu rảo bước đi hết cầu thang; chân cầu thang dẫn vào một căn phòng lớn. Nó là một sự kết hợp kỳ lạ giữa những thứ mới lạ và những thứ cổ kính: một khung cửa sổ kính trang trí hướng về phía dòng kênh, và một bản nhạc đang phát ra từ chiếc máy sterio đặt ở góc khuất nào đó. Nhưng ở đây không có TV, không có các chồng DVD hay CD, và chẳng hề có bất cứ món đồ thường thấy ở phòng khách nào hết. Thay vào đó là những chiếc ghế tựa đệm lưng xếp quanh lò sưởi lớn đang cháy lách tách.

Alec đứng bên lò sưởi, khoác trên mình bộ đồ đi săn của Thợ Săn Bóng Tối, tay đeo găng da. Anh ta ngước nhìn khi Simon bước vào phòng và nhăn nhó thường lệ, nhưng không nói gì.

Ngồi trên đi-văng là hai thiếu niên Simon chưa từng gặp, một nam và một nữ. Cô gái trông như có mang một chút dòng máu châu Á, với mái tóc đen mượt mà được kéo gọn ra sau, nét mặt tinh nghịch đáng yêu. Cái cằm xinh xắn của cô nàng nhỏ như cằm mèo. Cô ta không hẳn là xinh đẹp, nhưng lại khiến người ta yêu thích không thể rời mắt.

Cậu trai tóc đen ngồi bên cạnh còn cuốn hút hơn. Chiều cao của cậu ta chỉ tương đương với Jace nhưng lại có vẻ cao hơn hẳn, kể cả khi ngồi; cậu ta có dáng người thanh mảnh nhưng rắn chắc, với khuôn mặt trắng xanh, thanh lịch và bồn chồn, thể hiện rõ trên đôi gò má và đôi mắt đen. Có gì đó quen thuộc tới kỳ lạ về cậu con trai này, như thể Simon đã từng gặp rồi vậy.

Cô gái lạ lên tiếng trước. “Đây là ma cà rồng đó à?” Cô ta nhìn Simon từ trên xuống dưới như đang đánh giá. “Tôi chưa từng nhìn một ma cà rồng gần tới mức này- không xét những ma cà rồng em muốn giết.” Cô gái nghiêng đầu. “So với một cư dân của Thế Giới Ngầm, trông cậu ta cũng được đấy chứ.”

“Cậu tha lỗi cho chị ấy nhé; chị ấy mang gương mặt của thiên thần và tính cách của quỷ Moloch,” cậu trai cười, đứng dậy nói. Cậu ta chìa tay cho Simon. “Tôi là Sebastian. Sebastian Verla. Và đây là chị họ tôi, Aline Penhallow. Aline-”

“Chị không bắt tay cư dân Thế Giới Ngầm,” Aline nói, trở lại tư thế dựa người vào đệm ghế. “Các người biết đấy, những ma cà rồng, chúng không có linh hồn.”

Nụ cười biến mất trên gương mặt Sebastian. “Aline-”

“Đúng mà. Chính vì thế họ không thể soi mình trong gương, hoặc bước đi dưới ánh mặt trời.”

Vô cùng khoan thai, Simon bước lùi lại về phía vệt nắng chiếu qua ô cửa sổ. Cậu cảm thấy ánh mặt trời nóng rực trên lưng, trên tóc. Cái bóng kéo dài và đen của cậu phủ trên nền nhà, gần chạm tới chân Jace.

Aline hít một hơi nhưng không nói gì. Sebastian mới là người lên tiếng trong khi đôi mắt đen tò mò nhìn Simon. “Vậy là sự thực. Nhà Lightwood đã nói, nhưng tôi không nghĩ-”

“Rằng chúng tôi nói thật?” Jace nói, lần đầu tiên kể từ khi họ đặt chân xuống dưới nhà. “Chúng tôi không nói dối về những điều thế này. Simon là-độc nhất vô nhị.”

“Em từng hôn cậu ấy,” Isabelle nói, không hẳn với một ai.

Đôi lông mày của Aline nhướn tít lên. “Họ thực sự để em làm mọi điều em muốn ở New York, đúng không?” cô ta nói, có vẻ vừa hoảng hốt vừa ghen tị. “Lần cuối cùng chị gặp em, Izzy, em thậm chí còn chẳng buồn cân nhắc-”

“Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, Izzy lên tám,” Alec nói. “Nhiều chuyện đã thay đổi. Giờ, vì mẹ mình đi vội nên cần có người mang giấy tờ và hồ sơ tới hộ mẹ mình. Mình là người duy nhất tròn mười tám, vì thế mình là người duy nhất được tới dự phiên họp của Clave.”

“Bọn em biết,” Isabelle nói, ngồi xuống một chiếc ghế. “Anh đã nói với bọn em có khoảng, ờ, năm lần ấy mà.”

Alec, đang ra vẻ trịnh trọng, lờ tít đi. “Jace, cậu đã mang chàng ma cà rồng tới đây, vì thế cậu phải lo liệu cho cậu ta. Đừng để cậu ta ra ngoài.”

Chàng ma cà rồng, Simon nghĩ. Không phải Alec không biết tên cậu. Cậu đã từng có lần cứu mạng Alec. Giờ cậu là “chàng ma cà rồng.” Thậm chí với Alec, một người có xu hướng sưng sỉa hầu như mọi nơi mọi lúc, cách xưng hô đó vẫn là quá đáng. Có lẽ việc đặt chân tới Idris đã gây ảnh hưởng gì tới anh ta. Có thể Alec cảm thấy cần chứng tỏ tính- cách-Thợ Săn Bóng Tối hơn ở đây.

“Đó là lý do cậu lôi mình xuống đây để nói chuyện hả? Không để chàng ma cà rồng ra ngoài? Đằng nào mình chẳng làm.” Jace ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Aline, và cô ta có vẻ hài lòng. “Tốt hơn hết cậu nên tới Gard và trở về. Chúa mới biết chúng tớ có thể gây ra cảnh trụy lạc thế nào khi không có cậu dẫn lối chỉ đường.”

Alec nhìn Jace với vẻ anh lớn-luôn-bình-tĩnh. “Cố hoãn cái sự sung sướng đó lại. Tớ sẽ trở lại trong nửa tiếng nữa.” Anh biến mất sau khung cửa hình vòm dẫn ra một hành lang dài; từ đâu đó xa xa, tiếng cửa đóng lách cách vọng lại.

“Anh không nên trêu chọc Alec,” Isabelle nói và nhìn Jace một cách nghiêm túc.

“Bố mẹ thực sự để Alec quản lý chúng ta.”

Aline, Simon không thể nào không để ý, đang ngồi sát gần Jace, vai chạm vai, thậm chí khi mà chiếc ghế còn khá rộng rãi. “Cậu có bao giờ nghĩ kiếp trước Alec là một bà già sống với chín mươi con mèo, lúc nào cũng hò hét đuổi cổ mấy đứa nhỏ hàng xóm tránh xa vườn nhà bà ta không? Vì tớ nghĩ vậy đấy,” anh nói và Aline cười khúc khích. “Chỉ vì cậu là người duy nhất có thể tới Gard-”

“Gard là cái gì?” Simon hỏi, mệt mỏi vì không hiểu mọi người đang nói chuyện gì.

Jace nhìn. Gương mặt anh ta vẫn lạnh te, không hề thân thiện; tay anh ta đang đặt lên eo Aline. “Ngồi xuống,” anh nói và hất hàm về cái ghế tựa. “Hay cậu định bay liệng trong góc nhà như dơi?”

Tuyệt. Giờ lại thêm mấy câu nói đùa dơi với chẳng diếc. Simon bực bội ngồi xuống ghế.

“Gard là nơi họp hành chính thức của Clave,” Sebastian nói, rõ ràng đang thương hại Simon. “Nó là nơi Luật được tạo ra và nơi Quan Tổng Tài cùng Điều Tra Viên sinh sống. Chỉ có những Thợ Săn Bóng Tối trưởng thành mới được bước vào nơi đó khi Clave tổ chức phiên họp.”

“Phiên họp?” Simon hỏi, nhớ lại điều Jace đã nói lúc trên nhà. “Ý anh là- không phải vì tôi?”

Sebastian cười. “Không. Vì Valentine và Bảo Bối Thiên Thần. Đó là lý do mọi người ở đây. Để thảo luận xem Valentine sẽ làm gì tiếp theo.”

Jace không nói gì, nhưng nghe thấy tên Valentine, mặt anh cau lại.

“Ờ thì, ông ta sẽ săn lùng Gương Thánh,” Simon nói. “Bảo bối thứ ba, đúng không? Có phải nó ở Idris không? Vì thế nên mọi người ở đây?”

Một khoảng im lặng ngắn trước khi Isabelle trả lời. “Không ai biết Gương Thánh ở đâu. Thật ra, không ai biết nó là gì.”

“Nó là một tấm gương,” Simon nói. “Cậu biết đấy - bằng kính tráng bạc, có thể phản chiếu. Mình đoán thế.”

“Điều Isabelle muốn nói,” Sebastian tử tế giải thích, “là không ai biết chút gì về Gương Thánh. Lịch sử của Thợ Săn Bóng Tối nhắc khá nhiều lần tới nó, nhưng không có nói cụ thể xem nó ở đâu, nó thế nào hoặc, quan trọng nhất, nó có tác dụng gì.”

“Bọn mình đoán Valentine muốn có nó,” Isabelle nói, “nhưng chẳng giúp được gì nhiều vì chẳng ai có thông tin xem nó nằm ở đâu. Các Tu Huynh Câm có thể biết gì đó, nhưng Valentine đã sát hại tất cả. Thế là bọn mình chẳng biết tẹo teo nào hết.”

“Tất cả bọn họ?” Simon ngạc nhiên hỏi. “Mình nghĩ hắn chi giết những Tu Huynh sống tại New York.”

“Thành Phố Xương không thực sự nằm tại New York,” Isabelle nói. “Nó giống như- Nhớ lối vào Triều đình Seelie tại Công Viên Trung tâm chứ? Chỉ vì lối vào nằm ở công viên không có nghĩa là bản thân Triều đình nằm dưới đó. Thành Phố Xương cũng vậy. Có rất nhiều lối vào, nhưng bản thân thành phố-” Isabelle ngừng nói khi Aline vội xua tay ra hiệu im lặng. Simon hết nhìn gương mặt cô gái nọ lại nhìn Jace và Sebastian. Họ đều có vẻ đề phòng, như thể nhận ra họ đã làm sai điều gì: tiết lộ những bí mật của Nephilim cho một cư dân Thế Giới Ngầm. Một ma cà rồng. Không hẳn với một kẻ thù, nhưng chắc chắn là một kẻ không đáng tín cậy.

Aline là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng. Đôi mắt đen xinh đẹp của cô nàng dán thẳng vào Simon, cô gái nói, “Vậy- cảm giác trở thành ma cà rồng ấy... nó ra làm sao hả?”

“Aline!” Isabelle có vẻ hoảng hốt. “Chị không thể đi lung tung hỏi mọi người rằng trở thành ma cà rồng có cảm giác thế nào được.”

“Chị chẳng thấy có lý gì lại không được phép cả,” Aline nói. “Cậu ta mới trở thành ma cà rồng, đúng không? Vậy cậu ta phải nhớ cảm giác lúc là người.” Cô ta quay lại với Simon. “Với cậu, máu vẫn có vị máu chứ hả? Hay nó có vị như một thứ khác, giống như nước cam hay gì đó? Vì tôi không nghĩ vị của máu sẽ-”

“Nó giống vị thịt gà,” Simon nói, chỉ để bắt cô ta câm miệng.

“Thật sao?” Aline có vẻ sửng sốt.

“Simon trêu chị đấy, Aline,” Sebastian nói, “mà cũng đúng thôi. Tôi thay mặt chị họ tôi đây xin lỗi cậu lần nữa, Simon. Những người được nuôi lớn ngoài Idris như chúng tôi dù sao cũng quen thuộc với cư dân Thế Giới Ngầm hơn một chút.”

“Nhưng không phải cậu được nuôi dạy tại Idris sao?” Isabelle hỏi. “Tớ tướng bố mẹ cậu-”

“Isabelle,” Jace ngắt lời nhưng đã quá muộn. Gương mặt Sebastian sầm tối lại.

“Bố mẹ tớ đã qua đời,” cậu ta nói. “Một sào huyệt quỷ ở gần Calais- không sao đâu, chuyện xảy ra cũng lâu rồi.” Cậu ta phẩy tay để ngăn những lời bày tỏ sự đồng cảm của Isabelle. “Bác tớ-chị gái của bố Aline - đã nuôi dạy tớ tại Học Viện Paris.”

“Vậy cậu nói tiếng Pháp?” Isabelle thở dài. “Ước gì tớ nói được một ngôn ngữ khác. Nhưng bác Hodge chưa từng nghĩ bọn tớ cần học gì khác ngoài tiếng Hy Lạp cổ và tiếng La-tinh, mà giờ làm gì còn ai nói ba thứ tiếng đó.”

“Tớ còn nói được tiếng Nga và tiếng Ý. Và một chút tiếng Ru-ma-ni, " Sebastian cười khiêm tốn. “Tớ có thể dạy cậu một chút-“

“Tiếng Ru-ma-ni? Thật ấn tượng,” Jace nói. “Không nhiều người dùng ngôn ngữ đó.”

“Anh thì sao?” Sebastian hứng thú hỏi.

“Không hẳn,” Jace nói với nụ cười giả lả mà nhìn qua, Simon biết ngay anh ta đang nói dối. “Tiếng Ru-ma-ni của tôi chỉ giới hạn trong vài cụm từ hữu dụng như, ‘Đây là nọc độc rắn hả?’ và ‘Nhưng trông cô trẻ quá nên không thể nào là một sĩ quan cảnh sát được.’”

Sebastian không cười. Có gì đó trên nét mặt của cậu ta, Simon nghĩ. Nó quá ôn hòa - mọi thứ về cậu ta đều từ tốn, nho nhã - nhưng Simon có cảm giác sự ôn hòa bên ngoài đang che giấu thứ gì đó hoàn toàn ngược lại. “Tôi thích đi đây đi đó,” cậu ta nói, ánh mắt chiếu thẳng vào Jace. “Nhưng được trở lại cũng tốt, đúng không?”

Jace ngừng chơi đùa với những ngón tay của Aline. “Anh có ý gì?”

“Chỉ là không có nơi nào giống với Idris, dù cho Nephilim chúng ta có thể dựng nhà dựng cửa ở những nơi khác khang trang bề thế thế nào. Cậu đồng ý không?”

“Sao cậu lại hỏi tôi?” Giọng Jace lạnh như nước đá.

Sebastian nhún vai. “Ừ thì, anh sống ở đây khi còn nhỏ, đúng không? Và đã nhiều năm rồi anh mới trở về. Hay tôi nhớ sai nhỉ?”

“Cậu không nhớ sai,” Isabelle bực bội đáp. “Jace thích giả vờ rằng mọi người không bàn ra tán vào về anh ấy, kế cả khi anh ấy biết thừa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện