Mật Mã Tây Tạng

Chương 219: Cuộc chiến giữa người và sói




Hoàn toàn không có dấu hiệu gì báo trước, Merkin bỗng nhiên thây rùng mình ớn lạnh, tức thì cảmgiác đến từng sợi lông tơ khắp toàn thân cũng dựng ngược cả lên. Đó chắc chắn là một con sói, lông bon g mươt , thoạt trông thể hình dường như còn lớn hơn sói xám Bắc Mỹ một chút, chỉ có điều, con sói đó con chưa lại gần, đã khiến Merkin và Soares cùng cảm thấy căng thẳng, cả hai đều cực kỳ kinh ngạc trươc phản ứng này của cơ thể mình. Trong măt Merkin, thể hình của con sói đang tiến lại gân đó có thể coi như hạng cao lớn khỏe đẹp trong đan , nhưng ánh mắt nó lại không hề có sự hung tàn, ngược lại toát lên một vẻ khinh thường, tựa hồ như ánh mắt của sát thủ vậy; còn điều Soares suy nghĩ nhiều hơn, lại là chủng loại của con sói này, y luc tung trong trí nhớ mình, thậm chí đã liên tươn g tới cả loài ma sói trong các truyền thuyết châu u thời xưa.

Sứ giả của sói

Bọn Trác Mộc Cường Ba đều không biết đã xảy ra biến cố gì, Tước Mẫu dường như rơi vào trạng thái hỗn loạn, binh lính đi lùng sục khắp nơi, nhưng hình như không phải tìm kiếm bọn họ. Nhân lúc rối ren ấy, bọn họ đi suốt một ngày một đêm, rồi chặt cây kết một tấm bè gỗ nhỏ ở Thác Nhật, vượt qua biển Sinh Mệnh, đặt chân lên địa giới Yaca.

Lữ Cánh Nam tính toán, ba người bọn Merkin hành trang gọn nhẹ, lại đi trước họ khoảng một tuần, nhưng vì Merkin chưa thông thuộc địa hình ở đây, cũng không có bản đồ, tốc độ tiến lên mỗi ngày áng chừng chỉ bằng hai phần ba so với bọn họ, vì vậy, nếu không xảy ra việc gì ngoài ý muốn, sau khoảng hai tuần nữa là họ sẽ đuổi kịp bọn y. Có điều, tuy trên bản đồ của pháp sư Tháp Tây không có chú thích, nhưng dựa vào những gì ông kể lúc còn sống, thì muốn đi hết địa giới của Yaca cũng mất khoảng hai tuần. Có nghĩa là, sau khi đuổi kịp bọn Merkin, đoạn đường phía sau, chính là tầng bình đài thứ ba mà cả hai bên đều chưa từng đặt chân lên, vậy nên phe nào tìm thấy Bạc Ba La thần miếu trước đều do bản lĩnh quyết định.

Họ trở lại chỗ doanh trại bí mật của Khước Ba Ca Nhiệt và Ngưu Nhị Oa, lấy vũ khí giấu ở đó ra. Vì số người giảm đi đáng kể, nên còn thừa khá nhiều vũ khí, nhìn các cạm bẫy được bố trí mới ở xung quanh, cả bọn bất giác lại nhớ đến Trương Lập.

Sau đó là một hành trình dài đằng đẵng và gian khổ vô cùng, theo lời dặn dò của pháp sư Tháp Tây, họ không đi về những nơi tập trung nhiều lều bạt, cũng không tiếp xúc quá nhiều với dân chúng ở Yaca, mỗi ngày đều giữ nguyên tốc độ tiến lên phía trước. Chỉ là, cả quãng đường ấy, ai cũng có cảm giác thiêu thiếu gì đó, khi màn đêm buông xuống, gió lạnh phất qua, lòng người thảy trào lên một nỗi ưu sầu không thể nói được thành lời. Đúng rồi, họ thiếu mất tiếng cười, từ khi Trương Lập chết, Nhạc Dương cũng không cười nữa. Trước đây, dẫu có xảy ra chuyện gì đau buồn đến mấy, Trương Lập và Nhạc Dương vẫn có thể khiến mọi người tạm thời quên đi cảm giác khổ sở buồn đau. Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài, thì ra một hành trình gian khổ nếu mất đi tiếng cười mới thực sự là một hành trình gian khổ.

Mọi người ít nói hơn hẳn, ăn cơm, ngủ, sáng sớm hôm sau lại đeo những chiếc ba lô trĩu nặng vội vã lên đường, tất cả trầm mặc lặng lẽ, thi thoảng có gặp phải những kỳ tích tự nhiên khiến người ta phải trầm trồ cảm thán, cũng chẳng ai buồn phát ra một tiếng kêu bày tỏ sự kinh ngạc.

Ở Yaca, những ngọn núi hình dáng kỳ dị do dung nham dồn tích lại dần dần ít đi, thay vào đó là thảo nguyên bát ngát vô tận. Tình hình ở Yaca còn thảm hại hơn Tước Mẫu nhiều, tuy rằng chiến tranh đã kết thúc từ lâu, nhưng mười thôn làng thì đến chín bỏ không, khắp nơi ngổn ngang những đống đổ nát tan hoang.

Vượt qua thảo nguyên rộng lớn của Yaca, càng tiến về phía trước, lại càng lạnh lẽo. Gió lạnh bạo ngược hoành hành, cỏ vàng vọt gầy trơ cúi rạp ngọn, để lộ ra những mạch đá trơ trọi, bốn bề càng hoang lương khôn tả.

Theo tấm bản đồ của pháp sư Tháp Tây để lại, và bản đồ trong tay họ có, tầng bình đài thứ hai này khác tầng bình đài thứ nhất, ở phần rìa bình đài có một dốc thoải hình chữ "chi"[xiv]_ tiếp nối với tầng bình đài thứ ba; đương nhiên, họ cũng có thể chọn đi đường tắt giống pháp sư Tháp Tây, leo thẳng lên vách đá hình dạng sóng thần bên ngoài, nhưng ngay cả thân thủ như pháp sư Tháp Tây cũng buộc phải nhảy xuống, thì họ cũng không cần phải thử lại lần nữa làm gì cả.

Lạ một điều là, dọc đường đi, họ không hề phát hiện ra tung tích của bọn Merkin. Thi thoảng gặp những chỗ giao lộ phải đi qua, phát hiện những căn lều của dân du mục lưu lạc, họ cũng đến thăm dò thử, nhưng đều không có tin tức gì của Merkin, ba kẻ ấy tựa như đã tan biến vào thinh không.

Hôm đó, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đến gần mép bình đài, hoàng hôn buông xuống một vùng hoang dã, lại thêm một ngày nữa sắp trôi qua. Bọn Trác Mộc Cường Ba tìm được một ngôi làng không người, bỏ hoang đã rất lâu, lều bạt vải thô, giá gỗ, đồ sắt đều đã gỉ sét cũ nát tàn tạ. Lữ Cánh Nam quan sát xung quanh, rồi cho rằng, ngôi làng này ít nhất cũng hoang phế đã mười năm trở lên. Sau một ngày bôn ba mệt mỏi, cả bọn quyết định qua đêm ở đây.

Gió lạnh buốt xương làm những ngọn cỏ trên triền đá run lên nhè nhẹ, Ba Tang vẫn như mọi ngày, đứng trên một tảng đá trần trụi, hờ hững nhìn đăm đắm về một hướng xa xăm. Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, điềm đạm nói: "Ba Tang, anh có phát hiện..."

Ba Tang nói: "Hả?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Có thứ gì đó đang bám theo chúng ta. Càng đi về phía Bắc, cảm giác này càng rõ rệt."

Giọng Ba Tang cất lên nghe khàn khàn: "Anh sợ à?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không phải tôi sợ, mà là cần phải làm rõ, chúng ta không thể hy sinh vô vị thêm nữa. Anh đã phát hiện ra từ sớm rồi, phải không?"

Ba Tang liếm môi trên, vẫn chăm chú nhìn về phía xa xa: "Còn nhớ tôi từng nói với anh một câu không? Đêm hôm ấy ở thôn Công Bố, tôi đã có một cảm giác rất quen thuộc, không phải là quen thuộc với hoàn cảnh xung quanh, mà là nỗi sợ khi cái chết gần kề."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Sau này cảm giác ấy lại xuất hiện à?"

Ba Tang cười gằn: "Không phải lại xuất hiện, mà là chưa hề biến mất." Ngưng lại giây lát, Ba Tang tiếp tục cất tiếng: "Sau khi bọn Nhạc Dương trở lại thôn Công Nhật Lạp, có một đêm cảm giác này của tôi cực kỳ mạnh mẽ, tựa hồ như bất cứ lúc nào chúng cũng có thể xông vào trong thôn làng, về sau không hiểu tại sao, lại từ từ rút đi."

Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, chỉ gần đây gã mới cảm thấy như có gì đó đi theo mình, nhưng nghe Ba Tang nói, thì dường như cái thứ ấy vẫn luôn bám theo bọn gã ngay từ lúc ban đầu, liền buột miệng truy hỏi: "Đó là gì? Sói? Hay người Lỗ Mặc? Hay là thứ gì khác?"

Ngón tay Ba Tang bất giác khẽ run lên, trầm giọng nói: "Là bọn chúng. Sau khi trở về từ núi tuyết, lúc nằm trong bệnh viện, tôi đã nhớ lại một số sự việc, những đốm sáng màu da cam ấy, là sói! Trên núi tuyết, chúng tôi đã gặp phải sói, rất giống lũ sói tôi từng gặp trước đó, có điều, vẫn còn một số thứ quan trọng nhất, tôi lại không tài nào nhớ ra nổi."

Trác Mộc Cường Ba thở dài nói: "Đừng tự ép mình quá, Ba Tang, nếu tầng bình đài thứ ba là nơi anh đã quen thuộc, biết đâu lại có thể nhớ lại gì đó."

Ngón tay Ba Tang lại khẽ run lên, anh không nói gì, nhưng trong lòng lại thầm nhủ: "Tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, Cường Ba thiếu gia, tuy chưa từng thấy cảnh vật ở đây, nhưng cảm giác kinh hoảng quen thuộc ấy đã cảnh báo thân thể tôi, bọn chúng đang lùa chúng ta rời xa khỏi nơi này, nhất định là có thứ gì đó, nhưng dù cố gắng thế nào tôi cũng không muốn nhớ lại... càng đi về phía trước, cảm giác ấy lại càng mãnh liệt hơn!"

Lúc này, Nhạc Dương bước lại gần, lớn tiếng nói: "Cường Ba thiếu gia, tôi tìm được cái này." Tay anh giơ cao một thứ gì đấy, chớp chớp sáng.

Đợi Nhạc Dương bước đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn rõ, trên tay anh là một tấm thẻ tên gắn với dây xích nhỏ bằng sắt, rất giống thẻ tên họ phát hiện trên người kẻ nhảy dù lúc vừa lên tầng bình đài thứ hai, chỉ là kích cỡ khác nhau mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa nói gì, Ba Tang đã giật lấy tấm thẻ ấy, đặt lên lòng bàn tay mình. Nhạc Dương nói: "Bên trên có ký hiệu."

"Chữ..." Ba Tang lạnh lùng nói.

"Gì cơ?"

"Chữ Krishna, là chữ của nền văn minh Krishna cổ đại." Nói đoạn, Ba Tang lấy trong người ra một tấm thẻ bài gắn với dây xà tích có kích cỡ, nhìn giống hệt như thế: "Đây là của tôi, Mã Long Kỳ, những tấm thẻ tên này để phân biệt những con Nhện khác nhau trong đội."

"Hả?" Nhạc Dương cầm lấy hai tấm thẻ tên, giơ lên đối chiếu, quả nhiên, ngoài ký hiệu và con số phía sau ra, chất liệu, hình dáng, phương pháp chế tác của cả hai tấm thẻ này giống hệt nhau. Anh nói: "Vậy là, thứ này thuộc về đồng đội cũ của anh? Cũng là người của đội Nhện Xanh à? Ký hiệu này nghĩa là gì vậy?"

"Ngao Đỏ." Ba Tang nhận lại miếng thẻ kim loại.

"Có nhầm lẫn không?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Ba Tang lắc đầu: "Đối với người lính, tên tuổi và thân phận đều là những thứ bị yêu cầu phải quên đi, chỉ có biệt danh và số hiệu trên tấm thẻ sắt này mới là thứ duy nhất chứng minh sự tồn tại của họ. Đặc biệt là với những binh sĩ thuộc đơn vị tác chiến đặc biệt như chúng tôi, mỗi tấm thẻ tên này đều là độc nhất vô nhị, tuyệt đối không thể trùng lặp hay nhầm lẫn được."

Nhạc Dương lập tức nói: "Vậy người có biệt danh Ngao Đỏ này, anh ta có phải là..."

Ba Tang gật đầu: "Đúng thế, cũng là một thành viên trong nhóm săn trộm chúng tôi."

"A!" Nhạc Dương không kìm được khẽ kêu lên một tiếng kinh ngạc.

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Chẳng phải anh nói, những thành viên khác đều đã..."

Ba Tang nói: "Khi đó chúng tôi bị đàn sói truy đuổi, chia làm hai nhóm, một nhóm mười mấy người, nhóm kia chỉ có bốn năm người, nhóm chúng tôi chỉ còn một mình tôi sống sót, dựa theo tình hình lúc ấy, tôi nghĩ rằng nhóm kia có lẽ không thể có ai thoát chết được."

Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Tây Mễ thì sao?"

Ba Tang lắc đầu: "Tây Mễ... y đã không còn là thành viên của Nhện Xanh nữa rồi."

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm: "Vậy có nghĩa là, anh chỉ cho rằng những người khác đều đã chết cả rồi, còn trên thực tế, cũng có khả năng vẫn còn những người sống sót khác?"

Nhạc Dương nói: "Cường Ba thiếu gia, chuyện này không quan trọng, mấu chốt là chủ nhân của cái thẻ tên này từng cùng với anh Ba Tang đến nơi đó, và bị sói đuổi đến đây. Cũng có nghĩa là, phương hướng chúng ta đang đi, chính là nơi anh Ba Tang và nhóm săn trộm từng đi qua!"

Trác Mộc Cường Ba lờ mờ cảm thấy Nhạc Dương nói không ổn lắm, vấn đề khi nãy gã muốn hỏi rất quan trọng, nhưng tại sao quan trọng thì nhất thời gã lại không nghĩ ra nổi, dường như đột nhiên quên bẵng đi luôn vậy. "Vừa nãy mình muốn hỏi gì nhỉ?" Trác Mộc Cường Ba vắt óc suy nghĩ.

Ba Tang gật đầu: "Ừm, gần như có thể khẳng định, phía trước chính là nơi chúng tôi từng đi qua."

"Tầng bình đài thứ ba, Bạc Ba La thần miếu..." Nhạc Dương nói: "Tôi đi báo với giáo quan!"

"Rốt cuộc là vừa nãy mình muốn hỏi gì vậy nhỉ?" Trác Mộc Cường Ba vẫn đang suy nghĩ.

Cũng ở giữa chốn hoang vu vắng vẻ ấy, cách chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba chừng nửa ngày đường, đang có người đốt một đống lửa. Merkin khều khều ngọn lửa, nói với Soares: "Anh khẳng định, chỉ có hai con sói thôi chứ?"

Soares nói: "Dựa theo dấu vết để lại, thì là hai con sói, nhưng tôi cũng không dám khẳng định."

Merkin lấy làm thắc mắc: "Tại sao?"

Soares đưa tay lên rờ rờ vết sẹo trên mặt, trầm giọng nói: "Anh có biết, gần như ngay từ lúc bắt đầu tôi đã cảm thấy dường như có động vật gì bám theo phía sau chúng ta, thể hình còn không hề nhỏ. Tôi cũng dùng rất nhiều phương pháp khác nhau để dò la dấu vết của chúng, nhưng mãi đến gần đây, mới phát hiện ra một số dấu vết. Tuy nhiên, những dấu vết này hoàn toàn không phải do tôi phát hiện ra, mà giống như là bọn chúng cố ý để lại vậy. Những phương pháp của tôi dường như không có tác dụng gì cả. Anh có biết, bây giờ cảm giác của tôi như thế nào không?"

Merkin nhìn Soares chằm chằm, chỉ nghe y nói tiếp: "Tôi cảm thấy, hai con sói này hành sự hoàn toàn trái ngược với bản năng động vật, tôi chưa từng thấy con sói nào theo dấu vật săn lâu như vậy, hơn nữa vẫn tiếp tục theo dõi con mồi cho dù chúng gần như không có khả năng săn giết, bọn chúng... bọn chúng dường như bám theo chúng ta, hoàn toàn chỉ vì mục đích theo dõi thôi vậy."

Merkin lấy làm khó hiểu, liền hỏi: "Rốt cuộc anh muốn nói gì vậy?"

Soares nói: "Hành vi này, chỉ có ở con người thôi."

Merkin đã hiểu, bèn gật đầu nói: "Ý anh là, có người huấn luyện bọn sói này, lệnh cho chúng theo dõi chúng ta?"

Nét mặt Soares hết sức phức tạp: "Nếu là như vậy thì tốt quá. Điều tôi lo lắng là, không ai huấn luyện cũng như ra lệnh, mà bọn chúng vẫn có thể có hành vi như thế."

Merkin sốt ruột ném cành cây cuối cùng vào đống lửa, vỗ vỗ tay đứng lên: "Chẳng hiểu nổi ngôn ngữ của mấy nhà sinh vật các anh nữa, tóm lại, chỉ cần bọn sói ấy không cản đường chúng ta... ừm..." Merkin thoáng nghĩ ngợi, rồi nói: "Anh thử nghĩ cách xem có thể khống chế bọn sói ấy không, sói chắc là loài động vật dễ thao túng thôi, phải không? Đối với Thao thú sư các anh ấy!"

Soares trầm ngâm: "Vậy thì còn phải xem là sói gì nữa."

Merkin đang định trả lời, bỗng thấy Max ôm một bó củi khô, hoảng hốt chạy trở về, chưa kịp lại gần đã nói: "Ông... ông chủ, hình như, hình như có thứ gì đó bám theo chúng ta..." Dứt lời, hắn ném bó củi xuống đất, hai tay chống gối thở hổn hển.

"Chẳng ra làm sao cả, có gì mà mày sợ cuống cả lên thế?" Merkin quát một tiếng, ngước mắt nhìn ra xa, trên đường chân trời nơi hai sắc đỏ và vàng hòa trộn với nhau ấy, từ từ xuất hiện một cái bóng, thon dài, khỏe khoắn, đuôi cụp, bước chạy nhanh nhẹn. Trên bầu không xám xịt sắp tối sập, đôi mắt nó ánh lên thứ sắc vàng yêu dị.

Hoàn toàn không có dấu hiệu gì báo trước, Merkin bỗng nhiên thấy rùng mình ớn lạnh, tức thì cảm giác đến từng sợi lông tơ khắp toàn thân cũng dựng ngược cả lên. Đó chắc chắn là một con sói, lông bóng mượt, thoạt trông thể hình dường như còn lớn hơn sói xám Bắc Mỹ một chút, chỉ có điều, con sói đó còn chưa lại gần, đã khiến Merkin cùng Soares đều cảm thấy căng thẳng, cả hai đều cực kỳ kinh ngạc trước phản ứng này của cơ thể mình. Trong mắt Merkin, thể hình của con sói đang tiến lại gần đó có thể coi như hạng cao lớn khỏe đẹp trong đàn, nhưng ánh mắt nó lại không hề có sự hung tàn, ngược lại toát lên một vẻ khinh thường, tựa hồ như ánh mắt của sát thủ vậy; còn điều Soares suy nghĩ nhiều hơn, lại là chủng loại của con sói này, y lục tung trong trí nhớ mình, thậm chí đã liên tưởng tới cả loài ma sói trong các truyền thuyết châu u thời xưa.

Con sói dừng lại cách ba người chừng năm mươi bước, rùng mình một cái như muốn rũ đi lũ rận bám trên lông, nó không tiến lên, cũng không đi vòng vòng xung quanh, mà chỉ nghiêng đầu quan sát bọn họ. Khi bị con sói nhìn chằm chằm, Merkin cảm thấy toàn thân khó chịu lạ kỳ, không kìm được cảm giác muốn vẩy tay rút súng ra, nhưng đã bị Soares ấn tay lại. Soares nói: "Để đấy tôi!" Nói đoạn, y bắt đầu lục lọi ba lô, tìm được một cái hộp nhỏ, mở ra, bên trong là một thứ gì đấy trông như dầu cao. Soares quẹt thứ ấy vào lòng bàn tay, xoa xoa một lúc, rồi nói: "Cơ quan phát triển nhất của loài sói là khứu giác, thế giới của chúng là thế giới của các loại mùi." Nói đoạn, y vừa tiếp tục xoa tay, vừa tiến về phía con sói.

Soares mới nhích chân được hai bước, con sói dường như đã dự cảm được điều gì đó, khẽ lúc lắc cái đầu sang hai bên như một tay đấm bốc, thân thể cong lại, chi trước vươn thẳng, chi sau cong lại, đột nhiên tăng tốc lao vút về phía Soares. Khóe mắt Soares giật giật, y xòe mười ngón tay chắn trước ngực, chỉ thấy con sói đó chạy đến cách y chừng bốn, năm mét thì nhảy bật lên, không ngờ đã bay qua đầu Soares. Soares không khỏi thầm kinh hãi, sói trưởng thành bình thường có thể nhảy xa khoảng năm sáu mét, nhưng con sói này chỉ bật một cái, không ngờ đã nhẹ nhàng vượt qua khoảng cách hơn tám mét. Điều này, đối với một Thao thú sư bắt thú, gần như có thể coi là một sai lầm chí mạng. Cũng may là con sói này dường như không có ý đồ tấn công Soares, nó chỉ vượt qua Soares, trực diện đối mặt với Merkin.

Vì có Soares chắn trước mặt, Merkin không thể nhìn rõ con sói ấy di động thế nào, tới khi y nhìn được, thì con sói đã chỉ còn cách y chưa đầy năm sáu bước, sẵn sàng để chồm lên vồ ngã y xuống đất. Chẳng những thế, khi đối mặt với ánh mắt đó, Merkin không ngờ lại ngẩn ra một thoáng, quên cả rút súng. Lúc y nhớ ra, thì con sói đã xoay thân, bắt đầu dịch chuyển theo phương ngang, tốc độ dịch chuyển nhanh không tưởng ấy cũng hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của Merkin. Khi tay y chạm vào khẩu súng, con sói đã lách ra bên ngoài tầm nhìn của y, vòng ra phía sau lưng rồi.

Merkin vội xoay người gấp, vẫn không thấy con sói đó đâu! Chỉ nghe tiếng Soares vang lên nhắc nhở: "Sau lưng anh!" Merkin lại xoay vút người lại, lần này thì thấy rồi, có điều con sói lại đã chạy ra xa bốn năm chục bước. Nó ngoảnh đầu, ngước nhìn Merkin một cái. Merkin không biết có phải mình gặp ảo giác hay không, nhưng dường như y trông thấy, con sói ấy đang nhìn mình nở một nụ cười bí hiểm, kế đó, chỉ thấy nó tả xung hữu đột, liên tiếp đổi hướng mấy lần, chớp mắt một cái đã biến mất trong lùm cỏ âm u. Merkin đã cầm súng trên tay, vậy mà thậm chí một viên đạn cũng không thể bắn ra được. Y ngây người nhìn Soares, hai người thậm chí còn chưa chạm vào con sói ấy, vậy mà như vừa trải qua một trận đại chiến, đều đang khẽ thở hổn hển, quay sang nhìn Max, thấy hắn đã mềm nhũn người ngồi thụp xuống đất, mồ hôi mồ kê đầm đìa túa ra trên mặt.

Sau khi con sói biến mất một lúc lâu, Merkin mới thở hắt ra một tiếng: "Đó là quái vật gì vậy?"

Còn Soares lại nói: "Thì ra, bọn chúng có thực lực đuổi giết bọn Trác Mộc Cường Ba kia cơ đấy."

"Anh nói cái gì?" Nghe Soares nhắc đến tên Trác Mộc Cường Ba, Merkin liền gặng hỏi thêm.

Soares nói: "Tôi nói là, nếu có hai con sói như vậy, bọn chúng hoàn toàn đủ năng lực phục kích sát hại bất cứ thành viên nào trong nhóm của tên Trác Mộc Cường Ba đó. Chỉ cần có tên lạc khỏi đội ngũ, thì chắc chắn sẽ chết chứ chẳng nghi ngờ gì nữa! Chỉ có điều... tại sao chúng lại không ra tay nhỉ?"

Merkin nhìn khẩu súng trên tay mình, vẫn còn chưa hoàn hồn lại hẳn: "Cái thứ ấy, có thật là sói không?"

Soares nói: "Anh thấy rồi đấy, ngoài sói ra, còn có thể là thứ gì được nữa?"

Merkin đá cho Max một cái, bảo hắn đi nhặt thêm củi, rồi ngồi xuống bên cạnh đống lửa, lẩm bẩm một mình: "Bọn chúng có ý gì vậy? Cảnh cáo, hay là khiêu khích chúng ta?"

"Không," Soares cũng bước đến cạnh y, nói: "Suy nghĩ của tôi trái ngược với anh, tôi cho rằng, đó là một hành động bày tỏ hảo ý."

"Hảo ý?" Merkin càng lúc càng thêm mù mờ.

Soares nói: "Nghĩ thử xem, bọn chúng đã theo dấu bọn Trác Mộc Cường Ba lâu như vậy rồi, nhưng có bao giờ lộ mặt ra đâu? Nó xuất hiện ở đây, ý là muốn nói với chúng ta: Cho các người biết, chúng ta ở đây, chúng ta là chủ nhân nơi này, chúng ta đang quan sát các người đấy."

Merkin trầm mặc không nói gì, ngước mắt nhìn bốn bề, chỉ thấy xung quanh mờ mờ hư ảo, cây cỏ xao động. Lần đầu tiên, y cảm thấy nơi này còn nguy hiểm hơn những gì y tưởng tượng rất nhiều. Đống lửa cháy phát ra những tiếng "lách tách lách tách", Soares trầm mặc giây lát, rồi lại nói: "Có lẽ, chúng sẽ còn xuất hiện nữa, ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào."

"Cách, cách, cách..." Max bỏ đống củi vừa nhặt được về xuống đất.

Tầng bình đài thứ ba

Sau khi rời khỏi thôn làng không người ấy, bọn Trác Mộc Cường Ba lại tiếp tục tiến về phía trước, Ba Tang phỏng đoán, họ hiện đã ở độ cao trên bốn nghìn mét so với mực nước biển. Sắc xanh mênh mang dần dần lui lại, lãnh địa của màu trắng ngày một mở rộng, vùng đất thần bí luôn che phủ trong làn mây mờ kia, cũng chỉ còn cách họ trong gang tấc nữa mà thôi.

Đi thêm bốn năm ngày nữa, họ phát hiện ra hai đống đá lớn ở ven đường, cao đến mười mấy mét, thoạt trông như những Kim tự tháp nhỏ, trên các tảng đá đều viết đầy những lời cảnh cáo bằng cổ văn, nét chữ đỏ hồng rực rỡ. Pháp sư Á La nói: "Xem ra, đây chính là ranh giới của người Thượng Qua Ba với dân cư tầng bình đài thứ hai rồi!"

Mẫn Mẫn nói: "Thế này có hơi quá đáng không, đã hết tầng bình đài thứ hai đâu, chúng ta cũng chưa thấy bất cứ chỗ ngoặt nào để chuyển lên tầng bình đài bên trên, vậy mà đã đặt mốc giới ở đây rồi!"

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Đây không phải cột mốc chỉ giới của người Thượng Qua Ba thiết đặt, mà là lời cảnh cáo của dân chúng sống trên tầng bình đài thứ hai này tự thiết đặt ra."

Nhạc Dương hỏi: "Trên những tảng đá này viết gì vậy?"

Pháp sư Á La đáp: "Trên đó viết, tiếp tục tiến về phía trước, sẽ đi vào thế giới của băng tuyết, không còn đường đi nữa. Băng nguyên trải dài ra vô tận ngút ngàn, trừ phi có thần linh chỉ đường dẫn lối, bằng không sẽ vĩnh viễn lạc lối giữa vùng băng tuyết ấy."

Nói xong, pháp sư Á La chợt đưa mắt nhìn quanh một lượt, rồi hỏi Nhạc Dương: "Sao rồi? Vẫn chưa phát hiện dấu vết gì của bọn Merkin à?"

Nhạc Dương lắc đầu nói: "Có lẽ tại bọn chúng ít người quá, chỉ có ba người thôi, nếu chúng cẩn thận xử lý dấu vết sau khi cắm trại thì khó phát hiện lắm."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Pháp sư vẫn không yên tâm về bọn Merkin sao?"

"Phải," pháp sư Á La lo âu nói: "Trong bọn chúng có một tên Thao thú sư, còn chúng ta thì không. Phải biết rằng, sức mạnh của một Thao thú sư không phải do bản thân kẻ đó quyết định, mà phải xem môi trường xung quanh có nhiều dã thú thích hợp cho kẻ ấy thao túng điều khiển hay không. Nơi này địa thế bằng phẳng, tầm nhìn rất thoáng, đến cỏ dại cũng thưa thớt, cực kỳ bất lợi cho dã thú sinh tồn, muốn đối phó với Thao thú sư thì đây là nơi tốt nhất để làm điều đó; nếu vào chốn rừng sâu rậm rạp, sợ rằng chúng ta không thể đuổi theo bọn Merkin, mà ngược lại, còn phải đi vòng để tránh mặt chúng cũng không chừng."

Vừa nhắc đến Thao thú sư, cả bọn đều nhớ lại tình cảnh thê thảm khi bị bọn người Lỗ Mặc truy đuổi trong rừng, Ba Tang gằn giọng phẫn hận: "Thao thú sư! Kết liễu hắn đi!"

Pháp sư Á La trầm ngâm: "Không, đừng coi thường Thao thú sư, tuy rằng năng lực chiến đấu của họ không mạnh, nhưng khả năng né tránh, chạy trốn, e rằng vượt quá sức tưởng tượng của mọi người đấy. Phải biết rằng, thân thủ của họ đều được huấn luyện trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt, thứ mà họ phải đối mặt khi luyện tập, đều không phải là con người."

Nghe pháp sư Á La nói vậy, Trác Mộc Cường Ba bất giác nhớ lại người thổi rắn ở Putumayo. Con rắn San Hô Đỏ cực độc ấy tuyệt đối không phải đang hôn người thổi rắn, mà nó thực sự muốn cắn chết đối phương. Sở dĩ người thổi rắn ấy vẫn bình yên vô sự, chắc chắn là vì đúng vào khoảnh khắc con San Hô Đỏ chuẩn bị táp trúng, y đã né ra với tốc độ mắt thường khó có thể nhận ra! Nghĩ tới đây, gã cơ hồ lại nhớ ra điều gì đó, sự việc ấy dường như có gì đó kỳ quặc, chừng như có điểm không ổn lắm, nhưng mỗi khi Trác Mộc Cường Ba tập trung ngẫm nghĩ, là lại cảm thấy không sao sắp xếp được các mạch tư duy, càng sắp càng loạn. Cuối cùng, gã đành phải vỗ vỗ lên trán, từ bỏ việc truy tầm linh cảm vừa thoáng hiện lên trong tích tắc, tiếp tục cùng đồng đội tiến về phía trước.

Mấy tiếng đồng hồ sau, Merkin đi vòng quanh đống đá lớn ấy, ánh mắt lộ vẻ nghi hoặc. Max vội hỏi: "Ông chủ, sao vậy ạ?"

Merkin nói: "Ký hiệu đến đây thì không thấy nữa."

Soares đứng bên cạnh, hai mắt sáng bừng lên: "Sao lại không thấy? Ký hiệu rõ ràng như vậy, lẽ nào hai người không thấy?"

Merkin liếc nhìn, liền trông thấy ký hiệu mà Soares nói đến, chẳng qua chỉ là một vết cào của móng sói trên tảng đá, liền lắc lắc đầu: "Đó không phải thứ tôi muốn tìm."

Soares dường như không nghe thấy Merkin nói gì, y đột nhiên thụp người xuống, hít mạnh một hơi, rồi ngẩng đầu lên, hoang mang đưa mắt nhìn quanh quất. Merkin hỏi: "Tìm gì đấy?"

Soares nói: "Sứ giả mới, chỉ ở ngay gần đây thôi."

"Cái gì?" Merkin vừa dứt lời, đột nhiên cảm thấy một luồng khí lạnh chạy qua thân thể mình, từ đầu xuống gót chân, ngẩng đầu lên gần như cùng lúc với Soares. Chỉ thấy trên đống đá xếp bừa bãi ấy, không hiểu từ lúc nào đã có thêm hai con sói, từ trên cao đang chằm chằm nhìn xuống. Max há hốc miệng, nhưng không thốt ra được âm thanh nào.

Merkin cũng được một phen thất kinh hồn vía, không ngờ bị hai con sói này đến sát gần như vậy mà vẫn hoàn toàn không hề hay biết. Y thầm tính toán thời gian mình rút súng và quỹ tích đường đạn, trong óc đồng thời hình dung ra cảnh tượng con sói nhảy lên theo các góc độ và phương hướng khác nhau. Nghĩ đến con sói hôm trước, cảm giác cũ lại dội lên, trong óc y hiện lên rõ ràng hình ảnh một góc chết, một góc chết chí mạng!

Soares thì ngược lại, gương mặt ghê rợn của y nở ra một nụ cười bí hiểm, dường như y đã nắm bắt được điều gì đó, không ngừng gật gật đầu với một trong hai con sói, đồng thời chìa tay ra. Trong ánh mắt run rẩy của Max, con sói đó chạy bước nhỏ đến phía trước mặt Soares, không cần ngẩng đầu lên cũng cao ngang với bàn tay chìa xuống của y rồi. Chỉ thấy nó khẽ hít lòng bàn tay của Soares một cái, đôi mắt hình tam giác không còn lộ ra vẻ hung hãn nữa, mà lại lè lưỡi liếm liếm tay y. Soares chầm chậm nhấc tay lên, từ từ nhích người ra phía trước, sau đó vỗ nhẹ lên đầu con sói một cái. Con sói nheo nheo mắt, dường như không có vẻ phản kháng. Bàn tay Soares vuốt dọc đầu sói ra phía sau, chà nhẹ lên bộ lông nó, khi y nhấc tay lên, con sói liền mở mắt, đảo một vòng như thể vừa nghĩ ra điều gì đó, rồi chạy trở lại chỗ đống đá, chạm đầu vào con sói còn lại, cổ họng phát ra những tiếng ư ử thấp trầm.

Merkin bấy giờ mới thở phào một tiếng. Max cằn nhằn: "Ông Soares, ông... cũng thật là, có thủ đoạn lợi hại như vậy mà không nói sớm, làm tôi sợ, sợ đến toát cả mồ hôi ra rồi."

Soares lau mồ hôi rịn ra trên trán, nhìn chằm chằm không chớp mắt vào hai con sói đang "gừ gừ" với nhau đó, lẩm nhẩm nói: "Quả đúng là... kết quả tiến hóa tự nhiên sao?"

Hai con sói chạm đầu vào nhau một lúc, rồi lần lượt xuống khỏi đống đá, chạy về phía trước mặt ba người. Merkin và Max đều không ghìm được, lùi về sau nửa bước. Hai con sói chạy được chừng mười bước, liền dừng lại, xoay một vòng như con ngựa, rồi tiếp tục đi về phía trước.

Merkin hỏi: "Chúng có ý gì vậy?"

Soares chăm chú quan sát, thấy hai con sói đó chạy được một quãng lại quay thêm một vòng nữa, bấy giờ mới nói: "Xem ra, chúng ta không cần đến những ký hiệu kia của anh nữa rồi, đi theo bọn chúng. Chủ nhân của vùng đất này, sẽ đích thân dẫn đường cho chúng ta."

Merkin nghi hoặc hỏi: "Thật không? Thế này có nguy hiểm quá không? Biết đâu đây chỉ là trò lừa đảo của chúng?"

Soares nói: "Trong từ điển của loài sói, không có hai chữ "nói dối"." Y ngưng lại giây lát, rồi cười khùng khục hỏi: "Nghe nói loài cáo trời sinh đã sợ lũ sói rồi? Lẽ nào anh cũng..."

Max phát ra một tràng âm thanh như thể muốn cười mà lại không dám cười, bị Merkin trừng mắt lườm cho một cái. Hắn nhủ thầm trong bụng: "Cười đi, cười đi, ông chủ trừng mắt nhìn ta, nhưng kẻ ông ấy căm tức lại không phải ta. Một chút oán giận nhỏ nhoi này cứ tích tụ dần, đợi khi chúng tích tụ đến một mức độ nào đó thì... Soares, ông cũng phải cẩn thận đấy."

Merkin đẩy cho Max một cái, gằn giọng ra lệnh: "Mày, đi theo xem sao."

Max vội rặn ra một nụ cười miễn cưỡng: "Vâng, ông chủ."

Ngày hôm sau, Nhạc Dương đột nhiên đưa ra đề nghị, hy vọng mọi người có thể dừng lại một chút, "Tôi cảm thấy phía trước có nguy hiểm, muốn tạm thời dừng lại để trinh sát cẩn thận đã." Anh nói.

Bọn Trác Mộc Cường Ba đều lấy làm kinh ngạc. Nơi này địa thế bằng phẳng, tuy cũng có những tảng đá lớn ở tầng trên rơi xuống đứng sừng sững giữa vùng hoang nguyên, nhưng chắc chắn không phải là vùng đất nguy hiểm gì cả, vả lại, chỉ có Nhạc Dương cảm thấy có nguy cơ, còn Trác Mộc Cường Ba lẫn Ba Tang đều không cảm ứng được gì, điều này thật kỳ quái.

Mẫn Mẫn lập tức phản đối: "Nơi này có gì mà nguy hiểm chứ? Có dã thú thì phát hiện được từ xa, vả lại địa thế rộng rãi, tầm nhìn rất thoáng, cho dù kẻ địch có muốn sắp đặt cạm bẫy cũng không biết chúng ta đi theo đường nào nữa mà! Tốt nhất là nên mau chóng lên tầng bình đài thứ ba đi, nếu để bọn Merkin đến trước, không biết bọn chúng sẽ sinh chuyện gì nữa."

Có điều, Lữ Cánh Nam lại ủng hộ Nhạc Dương, cô nói: "Chính vì nơi này thoạt nhìn có vẻ rất an toàn, nói không chừng kẻ địch sẽ lợi dụng tâm lý lơ là cảnh giác của chúng ta. Nhạc Dương nói cậu ấy cảm thấy nguy hiểm, vậy thì chắc chắn đã phát giác ra dấu hiệu gì đó rồi, chúng ta không thể có thêm tổn thất nữa, để tôi và Nhạc Dương cùng đi kiểm tra lại một lượt cho chắc ăn. Những người còn lại không thể phân tán ra nữa, cứ ở lại chỗ khuất nẻo này mà nghỉ ngơi chỉnh đốn, chờ tin của chúng tôi."

Lữ Cánh Nam và Nhạc Dương mang theo các thiết bị trinh sát, tiến về phía mép bình đài. Lúc Nhạc Dương chuẩn bị cất bước, pháp sư Á La lướt qua bên cạnh anh, khẽ niệm: "Vô gian địa ngục, có thể không vào, thì chớ nên vào."

Nhạc Dương cười khổ một tiếng, thầm nhủ: "Ta không vào địa ngục, còn ai vào địa ngục nữa đây."

Nhìn theo bóng hai người đi xa dần, Trác Mộc Cường Ba hỏi Ba Tang: "Anh có cảm thấy gì không?"

Ba Tang lắc đầu: "Nếu là cạm bẫy hay gì đó tương tự, thì chúng ta không thể cảm nhận được, cậu lính trinh sát đã nói cậu ta phát giác được điểm khả nghi, thì cứ để cậu ta đi tra xét thôi, có điều..." Ba Tang chầm chậm nói: "So với hôm qua, tôi thấy tâm trạng mình còn thoải mái hơn một chút."

Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: "Cảm giác có gì đó đang bám theo chúng ta biến mất rồi à?"

Ba Tang lắc đầu: "Chỉ nhạt đi thôi."

Trác Mộc Cường Ba thở dài: "Nói đến cạm bẫy, thì Trương Lập là giỏi nhất."

Ba Tang "hừ" khẽ một tiếng, chân di mạnh lên những viên đá vụn dưới đất.

Nhạc Dương và Lữ Cánh Nam đi một mạch hơn nửa ngày, nếu không phải vẫn giữ liên lạc, Trác Mộc Cường Ba còn tưởng rằng họ đã xảy ra chuyện gì rồi. Mãi đến chiều, hai người mới mệt mỏi trở lại, Nhạc Dương trông có vẻ rất ủ rũ, Lữ Cánh Nam báo với cả bọn, những tình huống nguy hiểm có thể xuất hiện xung quanh đây về cơ bản đều đã bị loại trừ.

Vô duyên vô cớ chậm trễ mất một ngày, đêm hôm đó Mẫn Mẫn cứ cằn nhằn mãi, Trác Mộc Cường Ba phải vỗ về an ủi một hồi, bảo rằng an toàn trên hết, vả lại bọn Merkin cũng không thể thuận buồm xuôi gió mãi được.

Chừng hơn mười ngày sau đó, cuối cùng họ cũng đến được chỗ rẽ ngoặt ở ranh giới giữa hai bình đài. Lúc này, họ như thể sắp lên đến chân trời, chỉ thấy bầu trời hình con rắn nằm trong mây mù dường như ở ngay trước mắt mình, cơ hồ vươn tay ra là chạm đến. Đuôi rắn ngoằn ngoèo gấp khúc, chót cùng hóa thành một tia sáng rồi biến mất không tăm tích. Vách núi hai bên từ dưới chĩa lên sừng sững, hình thành nên kết cấu đấu củng[xv] , thoạt trông như cột chống trời xuyên vào mây mù, khiến người ta có cảm giác như đang bước đi trong một tòa cung điện kỳ vĩ. Con người nhỏ bé như trùng kiến, đi mấy ngày có khi cũng chưa vòng qua được một cây cột trụ đó.

Địa hình nơi này giống như con đường hình chữ "chi" vòng quanh quả núi, sau mỗi lần rẽ ngoặt độ cao lại tăng lên một bậc, chỉ là đoạn đầu địa hình hơi chật hẹp, đá dưới chân lởm chởm, có lúc còn trơn trượt, đi trên đó chẳng khác nào phải leo bám vách đá. Càng tiến lên, nhiệt độ càng thấp, trên một vài tảng đá sương kết thành váng, trời không gió mà vẫn lạnh run người. Càng tệ hơn nữa là, vùng sương mù mờ mịt vốn ở tận chân trời che phủ tầng bình đài thứ ba, giờ đây đã mỗi lúc một tiến gần bọn họ hơn.

Ngày thứ hai sau khi bắt đầu rẽ ngoặt, họ tiến vào giữa màn sương mù. Mây mù vẫn chưa dày lắm, trong khoảng năm mươi mét còn nhìn thấy người được, chỉ có điều, ngoài năm mươi mét thì không thể phân biệt đâu là người, đâu là đá núi nữa. Ngoài ra, đường đi rất gập ghềnh khúc khuỷu, pháp sư Á La cho rằng, nếu kẻ địch phục kích ở đây thì khó mà tránh né được. Bọn Trác Mộc Cường Ba không thể không đề cao cảnh giác, mỗi lần Nhạc Dương đi lên dò đường, Trác Mộc Cường Ba đều dặn dò hết sức cẩn thận.

Họ đi như vậy được hai ngày, đường dưới chân bắt đầu rộng rãi hơn, cuối cùng cũng coi như đã đặt chân được lên rìa bình đài thứ ba. Trong hai ngày này, vẫn không xuất hiện mối nguy nào từ phía kẻ địch. Bọn Trác Mộc Cường Ba đành suy đoán rằng, bọn Merkin nôn nóng muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, nên đã bỏ qua điểm phục kích tốt nhất, hoặc căn bản không hề nghĩ đến chuyện dừng lại phục kích. Còn một mối nguy đáng sợ hơn bội phần... đàn sói đã từng "hoan nghênh chào đón" pháp sư Tháp Tây, họ cũng chưa từng gặp phải. Theo suy đoán sơ bộ của pháp sư Á La, họ cách nơi pháp sư Tháp Tây trực tiếp leo lên vách đá khoảng chừng mười ngày đường, trong mười ngày tới đây này, cũng có khả năng xảy ra những sự việc hoàn toàn nằm ngoài dự liệu.

Một điều nữa khiến Nhạc Dương càng lo lắng hơn, là màn sương mù mờ mịt kia. Anh vốn tưởng rằng, màn sương ấy che phủ nơi lưng chừng núi, xuyên qua khu vực đó, thì cả tầng bình đài thứ ba sẽ trọn vẹn hiện ra phía trước, ai ngờ đã đi suốt hai ngày trời, sương mù vẫn không có dấu hiệu tan đi, ngược lại còn có xu thế mỗi lúc một dày đặc. Nhạc Dương nói mối lo này của mình với mọi người, pháp sư Á La lại khiến cả bọn thêm kinh hãi: "Mọi người đã quên lời cảnh báo trên cột mốc chỉ giới rồi hay sao? Những người đặt chân lên vùng đất này, sẽ lạc lối giữa băng tuyết. Băng và tuyết thì khó lòng khiến người ta lạc lối được, chỉ có màn sương mù này mới có thể. Nếu tôi đoán không lầm, khoảng một hai tháng từ giờ, hoặc lâu hơn nữa, sợ rằng chúng ta vẫn phải đi trong màn sương này đấy."

"Hả?" Nhạc Dương cả kinh, ngoảnh đầu lại hỏi: "Anh Ba Tang?"

Ba Tang trầm ngâm hồi tưởng: "Không, nơi chúng tôi từng đến ấy không có sương mù, chỉ là... trên những ngọn núi tuyết xung quanh có sương mù rất lớn, bọn tôi phải vật lộn ở hành lang gió Tây suốt nửa tháng trời."

Nhạc Dương thở phào: "Cũng may, chỉ có nửa tháng."

Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu nói: "Không đúng, hành lang gió Tây là gió từ phía bên ngoài thổi xung quanh núi tuyết, còn chúng ta đang ở khoảng không gian được vây bọc bởi các ngọn núi, hai con đường này hoàn toàn khác nhau."

Mẫn Mẫn nói: "Nhưng cũng không thể nào cả tầng bình đài thứ ba này đều bao bọc trong sương mù được, anh Ba Tang đã nói nơi ấy không hề có sương mù mà."

Lữ Cánh Nam đáp: "Đây là hiện tượng bổ khuyết và thiên lệch trong vận động của các thể không định hình. Chắc mọi người đều biết các hiện tượng như bão, hay vòi rồng đúng không? Trên bản đồ khí tượng, vị trí tâm bão lại chẳng hề có mây, tương tự như vậy, ở trung tâm vòi rồng cũng không có gió và các tạp vật khác. Màn sương mù này, cũng có thể coi như một loại thể lưu không định hình cùng tồn tại với gió và khí áp, ở trung tâm của nó, cũng có thể xuất hiện tình trạng tương tự với bão hay vòi rồng."

Pháp sư Á La nói: "Điều này cũng có thể giải thích tại sao mấy trăm năm nay, những người ở tầng bình đài thứ hai đã vô số lần muốn chinh phục Shangri-la, nhưng còn chưa kịp nhìn thấy Shangri-la ở đâu đã thất bại, thậm chí không một ai có thể trở về nữa. Họ dùng mắt để quan sát thế giới này, nhưng chiến lang của người Qua Ba lại chủ yếu dựa vào khứu giác để phân tích thế giới. Trong màn sương mù dày đặc, chúng ta sẽ không nhìn thấy gì, còn lũ sói thì lại không bị ảnh hưởng nhiều lắm."

Trác Mộc Cường Ba trầm tư, nói: "Lợi dụng sương mù dày đặc, phối hợp với chiến lang, đây đích thực là một tuyến phòng ngự kiên cố không gì phá nổi, chúng ta làm sao mới vượt qua được đây?"

Lữ Cánh Nam dường như cũng đắm chìm vào trong suy tưởng: "Cũng không phải hoàn toàn không có cách, Ba Tang và Đường Thọ không phải đã vào được Shangri-la thông qua đường trên núi tuyết hay sao? Vả lại, lúc ban đầu họ không bị đàn sói tập kích, chẳng phải vậy sao? Đường Thọ sống sót chạy trở ra được đấy thôi. Hơn nữa, trong các thôn làng chúng ta đi qua cũng có không ít truyền thuyết về các dũng sĩ từng đến được Shangri-la, vậy thì, nhất định phải có cách vượt qua được màn sương mù này mà không bị bầy sói tấn công. Ba Tang, anh có nhớ lần đó, nhóm người các anh gặp phải bầy sói như thế nào hay không?"

Nhạc Dương thầm nghĩ: "Lẽ nào bầy sói cũng lựa chọn cho ai đi qua vùng sương mù dày đặc này? Ừm... Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ, tuy trước mắt vẫn chưa biết anh ấy "Thánh" ở chỗ nào, nhưng huyết thống chắc là thuộc hàng thượng đẳng rồi."

Ba Tang nghiêm túc nhắm nghiền mắt lại, bắt đầu đào sâu vào trí nhớ, hồi tưởng lại tình cảnh của bọn họ khi ấy.

Lữ Cánh Nam nói không sai, mấy lần đầu họ đều không gặp nguy hiểm, cho đến lần cuối cùng... cuối cùng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy? Trong hồi ức của Ba Tang, xuất hiện một đám đàn ông miệng ngậm thuốc lá, tay cầm thanh đao đẫm máu, miệng cười khì khì lột da linh dương. Lúc đó, bọn họ chỉ nghĩ rằng nơi này là một khe núi khuất gió, và bọn linh dương Tây Tạng ghé vào đây để trốn lạnh trên đường di chuyển của chúng. Nhìn đống da linh dương chất lên như ngọn núi nhỏ, những gã đàn ông ấy tựa hồ như thấy vàng chất đống lên trước mắt mình.

À, phải rồi, bọn họ cũng từng tìm kiếm xem khe núi này có đường ra nào khác không. Bấy giờ mới phát hiện, khe núi này lớn hơn những gì họ tưởng tượng rất nhiều. Có lần, cả bọn đã đi suốt một ngày một đêm, mà cảnh tượng đập vào mắt vẫn là thảo nguyên mênh mông. Lần sau, họ lại đi thêm hai ngày đường nữa, vẫn không thấy tận cùng. Vả lại, bọn họ cũng phát hiện, ngoài chỗ bọn họ đi xuống, những nơi khác đều không thể leo ra ngoài trở lại. Để không bị lạc trên thảo nguyên vô tận, họ không dám tiếp tục đi nữa, cho đến lần cuối cùng...

Săn linh dương Tây Tạng ở đó thực quá dễ dàng, gần như giết mãi cũng không hết, vả lại bọn chúng cứ đứng yên ở đó, chẳng biết chạy trốn, hoàn toàn không cần phải dồn hết nhân lực đi bắt giết linh dương, nhưng lòng hiếu kỳ của con người thì vĩnh viễn không bao giờ thỏa mãn... Tại sao trong núi tuyết lại có một nơi thế này? Đây rốt cuộc là đâu, rốt cuộc rộng lớn chừng nào? Trong đội ngũ của Nhện Xanh bắt đầu xuất hiện hai dòng ý kiến trái ngược. Chỉ có một số ít kiên trì cho rằng, cứ tập trung làm việc, giết càng nhiều càng tốt, đợi khi nào kiếm đủ tiền thì từ bỏ cái nghiệp này, sống cuộc đời thoải mái; đại đa số còn lại thì muốn đi sâu vào vùng trung tâm thảo nguyên. Số lần đến thảo nguyên giữa núi tuyết ấy càng nhiều, số người muốn đi vào sâu hơn bên trong cũng tăng lên. Cuối cùng, lần đó, họ chuẩn bị đủ lương thực, chỉ để lại mấy người xác định phương vị, duy trì liên lạc và tiếp tục săn giết linh dương, còn những thành viên mạnh nhất đều gia nhập vào chuyến đi dài.

Ba Tang còn nhớ, lúc xuất phát, người nào người nấy đều hưng phấn, cười đùa vui vẻ, gương mặt rạng rỡ, tràn đầy niềm vui. Hành trang nặng nề đeo sau lưng, trên người khoác trang phục thám hiểm vùng băng tuyết, ai nấy uy phong lẫm liệt, bọn họ, đều có thể nằm trong hàng ngũ những chiến binh ưu tú nhất thế giới cơ mà!

Trên đường đi xảy ra những chuyện gì thì Ba Tang không nhớ nổi, nhưng anh vẫn nhớ, mặc dù đã chuẩn bị rất đầy đủ, nhưng bốn năm ngày sau, trong đội vẫn xuất hiện những ý kiến muốn quay về. Thảo nguyên mênh mông dường như đi mãi không hết, dẫu là hoàng hôn mênh mang, cảnh đẹp tuyệt trần, nhưng ngày nào cũng ngắm thì cũng sẽ thấy chán. Nơi ấy, ngoài cỏ và linh dương ra, dường như chẳng còn gì khác nữa.

Rốt cuộc là đã đi bao lâu? Họ gặp người trước, hay gặp sói trước? Tại sao... lại tách đội ra? Ba Tang gắng sức lục lọi trong ký ức, phải rồi, thứ đầu tiên họ gặp phải, không phải con người, cũng không phải sói, mà là một kiến trúc cổ đại bị tàn phá nặng nề. Kiến trúc ấy... Ba Tang không thể nào nhớ nổi, sục sạo khắp trong óc, cũng chỉ có các kiến trúc như Đảo Huyền Không tự, hay Cánh cửa Sinh mệnh... đột nhiên, anh sực nhớ ra một chuyện, phải rồi, đó là nơi cơn ác mộng bắt đầu!

Những ký ức quan trọng

Trong ký ức của Ba Tang, xuất hiện mấy con sói con đang lẫm chẫm tập đi. Kerr mang chúng về, hắn vui vẻ nói, mới bắn chết một con sói mẹ, nhặt về mấy con con. Thịt sói này ăn không khác thịt chó, đặc biệt là sói con đang bú, nướng lên mùi vị mới gọi là thơm ngon. Lúc đó, còn có Laka, Nick và Will nữa.

Ba Tang nhớ, khi ấy mình chuẩn bị nếm thịt sói, đao đã rút ra cầm trong tay. Nhưng Kerr lại nói, hắn vất vả mang sói con còn sống về đây, chính là để giữ cho chất thịt được tươi mềm, giết bằng đao thì mùi vị sẽ mất cả ngon đi. Nói đoạn, hắn dìm đầu con sói xuống nước, giây lát sau, cả mấy con sói con đều tắt thở. Bấy giờ, hắn lại dạy cả bọn vót que gỗ xuyên qua mình sói con, nướng trên lửa. Thịt sói nướng thơm nức, làm ai nấy đều chảy cả nước miếng.

Đúng lúc cả bọn chuẩn bị đánh chén mà chưa kịp bắt đầu, thì Santos quay lại, vẻ mặt cực kỳ hoảng hốt, lắp ba lắp bắp nói gì đó rất nhanh, Ba Tang không nghe rõ lắm, chỉ nhớ hắn ta cứ không ngừng lặp đi lặp lại một câu nói: "Sói đến rồi! Sói đến rồi!" Anh vẫn còn nhớ, Nick còn cười khùng khục bảo: "Sói thì có gì đáng sợ, cho một phát súng là xong, vừa khéo đang thiếu thịt để chia đây."

Santos đi đâu vậy nhỉ? Ba Tang lại lục tìm trong ký ức mơ hồ, phải rồi, sau khi đến nơi ấy, họ chia ra làm hai nhóm, một nhóm nghỉ ngơi tại chỗ, một nhóm đi thám sát tình hình xung quanh. Santos thuộc nhóm đi dò đường kia.

Cho đến khi Laka hỏi, những người khác đâu hết cả rồi, và Santos trả lời bằng giọng tột cùng khiếp hãi: "Chết hết! Chết tiệt hết cả rồi!", cả bọn mới bắt đầu ý thức được sự việc này nghiêm trọng đến mức nào.

Lũ sói đến, việc này không đáng sợ. Điều kinh khủng là, mỗi con sói đều ngậm một phần thân thể người, có đầu lâu, tay chân, ngực bụng, xương cốt và nội tạng, từ những áo quần rách rưới và màu da, vẫn lờ mờ có thể nhận diện được đó là ai. Không biết kẻ nào nổ súng đầu tiên, chỉ biết, bọn Ba Tang đã kinh hoảng lia ra một loạt đạn kéo dài. Sau đó, cả bọn mới bàng hoàng nhận ra, lũ sói chỉ bỏ lại một đống tay chân vương vãi, rồi chạy biến đi đâu mất. Nhìn thi thể của đồng bọn bị cắn xé nát bươm thành vô số mảnh, đám Nhện Xanh có kẻ hoảng hốt, có kẻ khóc rống lên, có kẻ căng thẳng nhìn quanh quất. Lúc đó, bọn Ba Tang hoàn toàn không ngờ bầy sói lại am tường cả tâm lý chiến, hạt giống của sự sợ hãi đã rải xuống, bắt đầu mọc rễ nảy mầm trong tâm trí mỗi người. Tuy rằng trước đây, đám người từng trải qua huấn luyện đặc biệt này cũng từng có người bị thương, bị chết, nhưng chưa bao giờ họ trông thấy nhiều người chết thê thảm như thế. Song, tất cả mọi thứ ấy, mới chỉ là khởi đầu của một cơn ác mộng dài đằng đẵng...

"Gượm đã, lũ sói kia đi đâu rồi?" Ba Tang tự hỏi mình trong hồi ức, lại ngẫm nghĩ, phải rồi, nơi đó mọc đầy một thứ cỏ cao ngang nửa người, có những tảng đá lớn, có cây, cây cối cao lớn che cả ánh mặt trời như trong rừng rậm nhiệt đới. Vả lại, rất nhiều trong số những tảng đá ấy, không giống như hình thành một cách tự nhiên, là cột đá, tường đá hay tượng đá sụp đổ?

Ba Tang không nhớ nổi hình dáng của những tảng đá ấy nữa, nhưng hình ảnh của lũ sói thì đã xuất hiện vô cùng rõ nét trong tâm trí anh, lông màu xám vàng, đôi mắt xanh biếc, thể hình cao lớn, tốc độ như chớp, ẩn hiện như bóng ma. Bọn họ căn bản không kịp xót thương cho đồng đội, chỉ thấy lùm cỏ đung đưa một cái, là đã có người biến mất như thể vừa sụp xuống hố bẫy, kế đó là tiếng rú gào thảm thiết. Tiếng kêu thảm vang lên không ngừng, nhưng khi loạt đạn lia tới thì đã không còn âm thanh gì nữa, khiến bọn Ba Tang không thể không dựa lưng vào nhau, tạo thành tuyến phòng ngự hình tròn. Nhưng không ai ngờ được, phía trên đầu đột nhiên rơi xuống một đống nội tạng và các phần cơ thể của những người đã chết. Tất cả đều không sao hiểu nổi, lũ sói làm cách nào mà leo lên cây được? Chúng làm thế nào mà mang được cả xác người lên nữa? Những cái xác ấy, có cái đã bị xé toang ra, có kẻ vẫn còn sống, nội tạng bị móc rỗng, hai mắt lồi ra, miệng há ra rồi lại ngậm vào, nhưng chỉ "khọc khọc" mà không phát ra tiếng kêu được, vì không còn phổi nữa, bàn tay nắm chặt, run rẩy. Khi những kẻ chỉ còn chút hơi tàn ấy co giật vươn tay ra, thần kinh của đám còn sống kia cuối cùng hết sức chịu đựng, hoàn toàn sụp đổ. Đàn Nhện Xanh đã hoàn toàn rối loạn, trong đầu chỉ còn một ý nghĩ chạy tháo mạng. Kể từ hôm đó, bọn Ba Tang bắt đầu bước lên một con đường thấm đẫm máu tanh.

Ba Tang không nhớ nổi bọn họ đi bao nhiêu ngày mới đến vùng đất chết ấy, đồng thời, cũng không nhớ nổi đã chạy bao nhiêu ngày mới ra khỏi khu rừng cây cối um tùm đó. Anh chỉ nhớ được, mỗi ngày đều có người chết, mỗi ngày đều có tiếng kêu rú thảm thiết vang lên xung quanh mình. Đáng sợ nhất là, cho dù bọn họ có cẩn thận đề phòng tới mức nào, sáng ngày hôm sau, vẫn đều trông thấy những mảnh thi thể của những người đã chết ngày hôm trước xuất hiện ở xung quanh mình, tựa hồ như để cảnh cáo những kẻ còn sống, dù các người có chạy thế nào, dù các người chạy trốn đến đâu, cũng chỉ có kết cục là cái chết mà thôi.

Bọn sói tấn công không chọn thời gian, không phân địa điểm, có khi một hai ngày chúng không giết người nào, cũng có khi lại đột nhiên giết chết mấy người liền. Ban ngày không thấy bóng bọn sói ở đâu, đến khi trông thấy thì đã nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, và một cái xác không hồn; như vậy cũng còn đỡ, mỗi khi đêm về, nhìn từ xa, những đôi mắt màu vàng cam chết chóc tựa như những bóng u linh phiêu đãng, đặc biệt sau khi đám Ba Tang hết sạch đạn dược, những đốm sáng chớp chớp ấy lại càng đến gần bọn họ hơn nữa.

Kể từ hôm bắt đầu chạy trốn, không một ai trong bọn họ dám ngủ, người nào cũng mệt mỏi cực độ, có kẻ thậm chí còn phải tự đâm dao vào da thịt để không ngủ thiếp đi. Trên đường chạy, nhiều người đã hoàn toàn sụp đổ, không tự sát thì cũng cười ngây ngốc đi về phía đàn sói, kéo lại cũng không được. Ba Tang và vài người nữa là những kẻ kiên trì được tới phút cuối cùng, dọc đường còn có một số thành viên khác giữ chốt liên lạc gia nhập vào, rồi lại có những người chết mới. Bọn họ giống như một lũ lợn bị lùa vào lò mổ, bị đàn sói vây công vờn như mèo vờn chuột mà không hề có khả năng kháng cự! Suốt chặng đường đào vong ấy, người mỗi lúc một ít, còn bọn sói tham gia vào hành động vây bắt bọn họ, lại dường như càng ngày càng đông thêm...

Giờ đây Ba Tang đã nhớ lại, mỗi bước hành động của đàn sói đó đều như đã được tính toán một cách nghiêm mật và cẩn trọng, tấn công đến đâu là chắc đến đó. Khi bọn họ còn vũ khí trên tay, tinh lực đầy đủ, bầy sói lợi dụng triệt để cây cối và các lùm cỏ xung quanh, đặc biệt là lợi dụng xác chết của những người khác trong bọn, gieo hạt giống sợ hãi vào tâm trí mỗi người, đồng thời không ngừng quấy nhiễu suốt ngày đêm, khiến các con mồi mệt mỏi cực độ cả về thể xác lẫn tinh thần, không dám nghỉ ngơi dù chỉ trong giây lát. Đến khi bọn họ chạy ra khỏi rừng cây, thì đạn dược cũng đã tiêu hao gần hết, thể lực cũng như tinh thần đều đến cực hạn của sự chịu đựng. Lúc này, bọn sói lại càng hoàn toàn nắm giữ quyền sinh quyền sát trong tay, sẽ không ngừng lởn vởn xung quanh đám người đã rơi vào tình trạng khủng hoảng tột độ. Đuổi, chúng sẽ đi, không đuổi, chúng lại đến, sau đó phát động tấn công vào những thời gian không định trước, khiến bọn Ba Tang phải tiêu hao hết thể lực vào việc chạy trốn, kẻ nào chạy chậm nhất, sẽ bị lũ sói giết chết... Những thành viên tinh thông nghệ thuật giết người của biệt đội Nhện Xanh gặp phải bầy sói tinh ranh này thì đã hoàn toàn rã ra như một đống bùn nhão...

Không rõ là ai khơi ra ý nghĩ, vì bọn họ ăn thịt sói con, nên bọn sói này đến báo thù. Bọn chúng sẽ giết từ từ, giết từng người một, để cho đám người này rơi vào sợ hãi tột độ mà không thể kháng cự. Ba Tang hoàn toàn tin vào lý do này. Bởi vì, trong suốt quá trình đuổi giết, điều khiến người ta kinh hoàng nhất là, bọn sói cắn xé nát bấy thi thể của những kẻ xấu số, móc hết nội tạng của họ ra, nhưng lại không ăn thịt, mà quẳng trả những cái xác bị tàn phá ấy cho đám người sống. Bọn chúng chỉ giết người, đồng thời dường như còn hưởng thụ lạc thú do việc giết chóc mang lại! Giống như cảm giác của bọn Ba Tang khi dùng cành cây xuyên qua thân thể sói con, nướng "xèo xèo" trên đống lửa vậy.

Ba Tang lại đột nhiên nhớ ra một vấn đề, tại sao ban ngày không trông thấy sói đâu, đến tối lại có thể nhìn thấy mắt chúng sáng lập lòe? Lúc đó, bọn họ đã chạy ra khỏi rừng, bốn phía đều là thảo nguyên bát ngát, vả lại cỏ ở đó mọc không cao lắm, đâu thể nào che khuất được thân thể của bọn sói ấy? Anh vất vả bới tìm trong đống ký ức hỗn loạn, đúng rồi! Nhớ ra rồi, lần đó, Ba Tang cũng trông thấy sói, ở ngay trước mặt mình. Santos khi ấy đi còn chẳng vững, lảo đà lảo đảo như có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, thình lình bị một con sói tha đi mất. Con sói ấy rất lớn, ngậm Santos tha đi mà như ngậm một con cừu vậy. Nó đớp vào cổ họng hắn, cơ thể và cái đầu Santos liền mềm rũ ra, rồi cứ thế bị kéo đi. Ba Tang đang đứng ngay bên cạnh, nhưng chỉ biết trố mắt ra nhìn mà không thể nhúc nhích, thậm chí còn quên cả bỏ chạy. Nhưng con sói ấy từ đâu chui ra vậy? Trong đầu Ba T

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện